1. Độ tuổi mắc ung thư vú ở phụ nữ ngày càng trẻ hóa
Ung thư vú là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao. Ung thư vú là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở phụ nữ trên thế giới. Tỷ lệ mắc ung thư vú khác nhau giữa các quốc gia, với tỷ lệ mắc cao nhất ở Hoa Kỳ và Bắc Mỹ và thấp nhất ở Châu Phi và Châu Á. Chỉ riêng ung thư vú đã chiếm 25% tổng số ca ung thư và 15% số ca tử vong do ung thư ở phụ nữ. Tỷ lệ mắc bệnh tăng lên tới 5% mỗi năm. Các quốc gia ở châu Á, chiếm 59% dân số trên thế giới, là châu lục có tỷ lệ mắc ung thư vú cao nhất, với 44% tử vong.
Theo một nghiên cứu mới được công bố gần đây trong tạp chí phẫu thuật ung thư, những bệnh nhân dưới 40 tuổi bị ung thư vú có xu hướng mắc bệnh ở giai đoạn tiến xa hơn và nguy hiểm hơn. Tỷ lệ có HER2 dương tính hay ung thư vú bộ ba âm tính (TNBC) gặp nhiều hơn ở nhóm người bệnh này và cũng cần điều trị mạnh hơn.
Thực ra những người trẻ tuổi hiếm khi mắc phải ung thư vú, tỷ lệ này là 1,8% các bệnh nhân từ 20 đến 34 tuổi và 8,7% từ 35 đến 44 tuổi. Bệnh nhân vị thành niên và thanh niên – lứa tuổi từ 15 đến 39 tuổi, tương đối thấp. Mặc dù vậy ung thư vú vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trong các bệnh ung thư ở phụ nữ trong nhóm độ tuổi này.
2. Đặc trưng của ung thư vú ở bệnh nhân vị thành niên
Trong một nghiên cứu tại Mỹ khi dựa trên cơ sở dữ liệu Ung thư Quốc gia, các nhà nghiên cứu đã xác định được tổng cộng 46.265 bệnh nhân vị thành niên bị ung thư vú giai đoạn 0 - 3 được chẩn đoán và so sánh với 169.423 bệnh nhân từ 40 đến 49 tuổi.
Bệnh nhân ung thư vú vị thành niên thường biểu hiện giai đoạn muộn hơn. Trong số những bệnh nhân từ 15 đến 29 tuổi, 48,2% chẩn đoán ung thư vú giai đoạn 2 và 17,3% biểu hiện với bệnh ở giai đoạn 3. Đối với những người từ 30 đến 39 tuổi, những tỷ lệ đó là 43,8% cho giai đoạn 2 và 13,6% cho giai đoạn 3; đối với bệnh nhân nhóm đối chứng từ 40 đến 49 tuổi, tỷ lệ tương ứng là 29,9% và 7,7% (P <0,001 cho từng cặp so sánh).
Nhóm bệnh nhân có HER2 dương tính cũng phổ biến hơn ở những bệnh nhân trẻ tuổi. Ở những người từ 15 đến 29 tuổi, 29,9% bị ung thư vú với HER2 dương tính; ở những người từ 30 đến 39 tuổi, tỷ lệ đó là 25,5%, và 18,6% ở những người từ 40 đến 49 tuổi (P <0,001).
Trường hợp ung thư vú có bộ ba âm tính cũng phổ biến hơn. Trong ba nhóm tuổi, tỷ lệ ung thư vú có bộ ba âm tính lần lượt là 23,7%, 20,9% và 13,8% (P <0,001). Nhiều bệnh nhân trong nhóm 40 đến 49 tuổi có biểu hiện hoóc môn dương tính với thụ thể và HER-2 âm tính.
Trong số những bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật, bệnh nhân vị thành niên có nhiều khả năng phải phẫu thuật cắt bỏ vú (69,2%) so với bệnh nhân ở độ tuổi bốn mươi (49,5%; P <0,001). Phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn được thực hiện trên 75,4% trong nhóm trẻ nhất, so với những người từ 30 đến 39 tuổi chỉ 68,5% ( P <0,001). Tương tự, bệnh nhân vị thành niên có xu hướng được hóa trị vì bệnh xâm lấn so với bệnh nhân từ 40 đến 49 tuổi (P <0,001).
Theo các tác giả, việc xem xét các quyết định điều trị ngoài việc dựa trên các hướng dẫn thực hành lâm sàng và/ hoặc nguyện vọng của bệnh nhân chứ không phải sinh học khối u, mà nguyện vọng của người bệnh lại chịu ảnh hưởng của tuổi mắc bệnh.
Các chuyên gia lưu ý rằng việc kiểm soát ung thư vú ở bệnh nhân trẻ tuổi rất phức tạp bởi phải cân nhắc khả năng sinh sản và Mang thai sau này, và thực tế là bệnh nhân vị thành niên lại ít được chú ý trong các thử nghiệm lâm sàng. Trong Tạp chí phẫu thuật ung thư đầu năm nay, Pridvi Kandagatla, Đại học Michigan, đã viết rằng quản lý ung thư vú ở bệnh nhân trẻ tuổi cần một cách tiếp cận đa ngành.
3. Nguyên nhân gây ung thư vú ở thanh thiếu niên
Các bác sĩ không hoàn toàn chắc chắn nguyên nhân gây ung thư vú ở tuổi vị thành niên vì có quá ít trường hợp gặp phải tình trạng này. Nói chung, người ta nghĩ rằng ung thư ở trẻ em phát triển do những thay đổi trong tế bào và DNA xảy ra sớm trong cuộc sống. Những thay đổi này thậm chí có thể xảy ra khi bạn vẫn còn trong bụng mẹ.
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cũng lưu ý rằng ung thư ở trẻ em không liên quan nhiều với các yếu tố môi trường và lối sống như hút thuốc lá hoặc ăn uống không lành mạnh.
Nhưng nếu bạn có những hành vi không lành mạnh này sớm trong cuộc sống, chúng có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú khi bạn lớn tuổi.
4. Các yếu tố nguy cơ ung thư vú ở thanh thiếu niên
Nghiên cứu về ung thư vú ở tuổi vị thành niên còn hạn chế. Nhưng các yếu tố nguy cơ chính xuất hiện bao gồm tiền sử gia đình và có một sự bất thường ở vú, ví dụ như bị xơ hoá.
Tiếp xúc với tia xạ trong điều trị các bệnh như bệnh bạch cầu và u lympho không Hodgkin trong thời gian phát triển vú được biết là làm tăng nguy cơ ung thư vú. Thường mất trung bình 20 năm để phát triển, khi một người phụ nữ cũng vào tuổi trưởng thành.
Nếu bạn cảm thấy bất cứ điều gì bất thường tại vú, hãy đi khám bác sĩ. Sau khi khám vú, bác sĩ sẽ hỏi về:
- Tiền sử bệnh tật gia đình bạn
- Bạn phát hiện ra khối u từ khi nào
- Bạn có chảy dịch núm vú hay không
- Bạn có bị đau không
Nếu bất cứ điều gì đáng ngờ, bác sĩ của bạn sẽ tiến hành siêu âm. siêu âm có thể giúp xác định xem u có dạng chắc đặc hay không, là một dấu hiệu của bệnh ung thư.
Nếu nó chứa đầy chất lỏng, rất có thể là u nang. Bác sĩ của bạn cũng có thể dùng kim nhỏ để chọc hút mô vú và kiểm tra mô bệnh học cho bệnh ung thư.