Tên gọi khác: Dị ứng thực phẩm
Triệu chứng
Các triệu chứng có thể khác nhau tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của dị ứng.
Chẩn đoán
Triệu chứng nhẹ: Phát ban, Buồn nôn, Nôn mửa, Tiêu chảy, Nổi mề đay.
Điều trị
Triệu chứng nghiêm trọng: Sưng tấy xung quanh mặt và miệng, Khó nuốt, Khó thở, Sốc phản vệ.
Nguyên nhân
Nguyên nhân do các dị nguyên glycoprotein. Các glycoprotein này tan được trong nước, có khả năng bền vững với nhiệt (khi chế biến) với acid, không bị phân hủy bởi protease.
Thức ăn hay gây dị ứng là sữa bò, trứng, lạc, vừng, đậu nành, lúa mỳ, hạt quả cứng, kiwi, táo, cà rốt, cá, nghêu, sò, tôm, cua... Mỗi độ tuổi hay bị dị ứng với một loại thức ăn nhất định, có thể kéo dài nhưng cũng có thể khỏi ở một độ tuổi nào đó.
Dị ứng có thể xảy ra với trẻ từ 1-7 tuổi với hạt cứng, 6-36 tháng tuổi với hạt mè, tuổi trưởng thành với nghêu sò, tôm, cua, cá và dai dẳng. Trong khi đó, trẻ em 6 - 24 tháng tuổi thường bị dị ứng lòng trắng trứng gà, sữa bò, lúa mỳ, đậu nành; đa phần sẽ khỏi lần lượt theo các thực phẩm này ở độ tuổi 7, 5, 2, 5.
Dị ứng thức ăn còn lưu hành theo từng địa phương. Nếu dị ứng trứng gà, sữa bò gặp hầu hết trên thế giới, thì dị ứng mù tạt hay gặp ở Pháp, hạt vừng lại thường gặp ở Israel, dị ứng cá hay gặp ở các nước ăn nhiều cá ngừ trong đó có nước ta.
Phòng ngừa
Một số loại thức ăn có chứa dị ứng nguyên có thể gây dị ứng cho người ăn như: gạo, khoai tây, đậu, lạc, cá, trứng, sữa, rau, quả,... dị nguyên thức ăn là các glycoprotein có trọng lượng phân tử từ 10-70 kD.
Một số dị nguyên thức ăn thường gặp:
Protein trong sữa bò chủ yếu gây dị ứng ở trẻ em, với các triệu chứng ở đường tiêu hóa, hô hấp, ngoài da, có 4 loại hay gây dị ứng là: Casein, B-lactoglobulin, B-lactalbumin, Globulin miễn dịch.
Dị nguyên ở cá có đặc tính chịu nhiệt độ cao, triệu chứng xuất hiện sớm, chỉ vài phút sau khi ăn như sốc phản vệ, phù Quinck, nổi mề đay.
Dị nguyên trứng có thành phần là ovomucoid không bị nhiệt phân và ovalbumin dễ bị nhiệt phân cả hai loại đều có ở lòng trắng trứng.
Bột mì có tới 20 loại dị nguyên có thể gây dị ứng ở người; các loại đậu, lạc khi nấu chín ăn vào rất hay gây sốc phản vệ.
Một số nghiên cứu còn cho thấy cách chế biến món ăn ảnh hưởng đến tính dị nguyên thức ăn như: có những dị nguyên bị phân hủy ở nhiệt độ cao khi nấu nướng; ngược lại có dị nguyên lại tăng tác dụng khi gặp nhiệt độ cao như lạc; dị nguyên của táo tăng lên khi bảo quản lâu; thực phẩm biến đổi gen có nguy cơ tiềm tàng gây dị ứng.
Điều trị
Riêng trứng khi dùng để chế vaccin sẽ sinh ra các dị nguyên và trẻ dị ứng với trứng thì rất có thể dị ứng với loại vaccin này, cần phải hết sức thận trọng.
Thuốc dùng trong dị ứng thức ăn không khó kiếm nhưng thường không được dùng kịp thời do ít khi chuẩn bị sẵn sàng.
Cần chú ý loại trừ các loại thức ăn có các dị nguyên ngụy trang. Biện pháp này cần thực hiện nghiêm túc với sự phối hợp của chuyên gia dị ứng, chuyên gia về dinh dưỡng, và sự hợp tác chặt chẽ của bệnh nhân trong thời gian dài.
Nếu đã có dấu hiệu bị dị ứng thức ăn cần sơ cứu: chườm đắp nước ấm, uống nhiều nước, uống thuốc kháng histamin, nhanh chóng đưa bệnh nhân đi khám ở bệnh viện.
Nếu bị sốc phản vệ đe dọa tính mạng bệnh nhân với các triệu chứng sau: xảy ra sau khi ăn 5-15 phút, thấy nghẹt thở, cảm giác sắp chết, tay chân lạnh, da nhợt nhạt, toát mồ hôi, huyết áp tụt, mất tri giác, gọi hỏi không biết... cần hô hấp nhân tạo, xoa bóp tim ngoài lồng ngực (nếu có ngưng thở, ngưng tim), khẩn cấp chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để cứu chữa, vì điều trị càng sớm và hiệu quả thì cơ hội sống sót của bệnh nhân càng cao.