Tên gọi khác: Thận nhiễm mỡ, Hội chứng thận hư
Triệu chứng
Sưng nặng (phù), đặc biệt là xung quanh mắt, mắt cá chân và bàn chân. Nước tiểu nổi bọt, tăng cân.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm nước tiểu 24 giờ kiểm tra nồng độ protein.
Xét nghiệm máu kiểm tra nồng độ cholesterol và triglycerid. Sinh thiết mô thận làm xét nghiệm.
Điều trị
Dùng thuốc để kiểm soát các triệu chứng và/hoặc điều trị các biến chứng của hội chứng thận hư. Thuốc có thể bao gồm: Thuốc hạ huyết áp, Thuốc ức chế men chuyển làm giảm huyết áp và giảm lượng protein trong nước tiểu như Benazepril (Lotensin), Captopril (Capoten) và Enalapril (Vasotec). Một nhóm các thuốc có tác dụng tương tự được gọi là Angiotensin II receptor blockers bao gồm Losartan (Cozaar) và Valsartan (Diovan) Thuốc lợi tiểu giúp kiểm soát sưng, gồm Furosemide (Lasix) và Spironolactone (Aldactone) Thuốc giảm cholesterol gọi là Statin, tuy nhiên hiện chưa rõ có hay không các thuốc hạ cholesterol đặc biệt có thể giúp tránh các cơn đau tim hoặc giảm nguy cơ tử vong sớm, Statins bao gồm: Atorvastatin (Lipitor) Fluvastatin (Lescol) Lovastatin (Altoprev, Mevacor) Pravastatin (Pravachol) Rosuvastatin (Crestor) Simvastatin (Zocor) Thuốc làm loãng máu Heparin hoặc Warfarin (Coumadin); Thuốc ức chế hệ thống miễn dịch như Corticosteroid có thể làm giảm viêm đi kèm với rối loạn thận.
Nguyên nhân
Đại cương
Định nghĩa
Thận hư là hội chứng lâm sàng và sinh hoá được đặc trưng bởi: protein niệu nhiều (>3,5g/24giờ), protein máu giảm (<60g/l), albumin máu giảm (<30g/l), lipit máu tăng và có phù.
Quan niệm về thuật ngữ
Thuật ngữ thận hư do Muller Friedrich Von đưa ra từ năm 1905 để chỉ các bệnh lý ở thận có tính chất thoái hoá mà không phải do viêm.
Năm 1913, Munk đưa ra thuật ngữ thận hư nhiễm mỡ để chỉ một nhóm triệu chứng gồm: phù, protein niệu, giảm protein máu và tăng lipit máu, đồng thời có hiện tượng nhiễm mỡ trong các tế bào ống thận, trong khi các cầu thận gần như nguyên vẹn.
Cùng thời gian đó (1914), Volhard F. và Fahr T. cho rằng: thận hư chỉ là một bệnh thoái hoá của ống thận. Từ đó thuật ngữ “thận hư nhiễm mỡ” được dùng để chỉ bệnh thận do nhiễm mỡ ở ống thận.
Cho đến 1937, Epstein đề xướng giả thuyết cho rằng “thận hư nhiễm mỡ” không phải là một bệnh ở thận mà là tình trạng rối loạn chuyển hoá lipit của cơ thể. Quan điểm này được các nhà thận học thời gian đó ủng hộ rộng rãi và trong suốt thời gian dài, nhiều tác giả gọi “thận hư nhiễm mỡ “ là bệnh Epstein.
Cho đến những năm 1950, nhờ có kính hiển vi điện tử, người ta đã phát hiện ra những tổn thương trong bệnh “thận hư nhiễm mỡ” hoặc “bệnh Epstein” không phải là do nhiễm mỡ ở ống thận gây nên, mà tổn thương mô bệnh học chủ yếu lại thấy ở cầu thận. Các nghiên cứu sau này cho thấy các triệu chứng của thận hư có thể gặp trong nhiều bệnh cầu thận tiên phát và thứ phát.
Tổn thương thận cũng đa dạng, mặc dù các biểu hiện lâm sàng và sinh hoá tương đối giống nhau. Vì vậy, thận hư không phải là một bệnh đơn thuần như quan niệm trước kia, cũng không phải do nhiễm mỡ ở ống thận hay do rối loạn chuyển hoá lipit gây nên, mà là biểu hiện của bệnh lý ở cầu thận do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên.
Do đó, đa số các nhà thận học đều thống nhất sử dụng thuật ngữ “hội chứng thận hư”. Một số tác giả vẫn còn giữ thuật ngữ “thận hư nhiễm mỡ” để chỉ thể bệnh thận hư đơn thuần có tổn thương tối thiểu (minimal change disease), tức là thể thận hư mà tổn thương mô bệnh học duy nhất được quan sát thấy qua kính hiển vi điện tử là mất chân lồi các tế bào biểu mô mao quản cầu thận.
Phân loại
Hội chứng thận hư ở người lớn bao gồm hội chứng thận hư tiên phát hay nguyên phát (idiopathic or primary nephrotic syndrome) và hội chứng thận hư thứ phát hay hội chứng thận hư kết hợp (secondry nephrotic syndrome or nephrotic syndrome associated with specific causes).
Phòng ngừa
Hội chứng thận hư nguyên phát
Hội chứng thận hư đơn thuần: bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu, chiếm tỉ lệ 20% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
Hội chứng thận hư do viêm cầu thận mạn bao gồm:
Xơ hoá cầu thận ổ - đoạn: chiếm tỉ lệ 15-20% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
Bệnh cầu thận màng: chiếm tỉ lệ 25-30% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
Viêm cầu thận màng tăng sinh: chiếm tỉ lệ 5-10% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
Các bệnh viêm cầu thận tăng sinh và xơ hoá khác: chiếm tỉ lệ 15-30% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
Hội chứng thận hư thứ phát
Bệnh hệ thống:
Đái tháo đường.
Luput ban đỏ hệ thống và các bệnh collagen khác.
Bệnh thận nhiễm bột.
Bệnh viêm mạch máu do miễn dịch (cryoglobulin máu hỗn hợp, u hạt Wegener, viêm nhiều động mạch, viêm thành mạch dị ứng...).
Bệnh nhiễm khuẩn:
Nhiễm vi khuẩn (nhiễm liên cầu khuẩn, giang mai, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp và cấp tính).
Nhiễm virus (virus viêm gan B, virus viêm gan C, HIV, Cytomegalovirus).
Nhiễm ký sinh trùng (sốt rét, Toxoplasma, sán máng...).
Do thuốc:
Muối vàng, thuỷ ngân và các kim loại nặng.
Penicillamin.
Các thuốc kháng viêm không steroid.
Lithi.
Catopril.
Heroin.
Các thuốc khác (probenecit, chlopropamit, ripampicin, tolbutamit, phenindion...).
Dị ứng, nọc rắn, nọc ong và miễn dịch.
Ung thư.
Bệnh Hodgkin, bệnh bạch cầu lympho (thường gây ra bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu).
Các khối u đặc (thường gây ra bệnh cầu thận màng).
Bệnh di truyền và chuyển hoá:
Hội chứng Alport.
Bệnh Fabry.
Bệnh hồng cầu hình liềm.
Hội chứng thận hư bẩm sinh.
Hội chứng thận hư có tính chất gia đình.
Hội chứng móng tay - xương bánh chè.
Các nguyên nhân khác:
Liên quan tới thai nghén.
Thải tạng ghép.
Bệnh huyết thanh.
Hẹp động mạch thận một bên.