Trong một số trường hợp, nguyên nhân gây tràn dịch màng tim không xác định được, như khi Viêm màng ngoài tim vô căn.
1. Cấu tạo giải phẫu màng ngoài tim
Cấu tạo giải phẫu của màng ngoài tim gồm 2 lớp: lớp trong nằm dính sát với cơ tim được gọi là lá tạng, lớp ngoài nằm sát thành ngực – trung thất được gọi là lá thành. Bình thường giữa 2 lớp là 1 khoang ảo, có láng 1 lớp dịch mỏng (khoảng 10 – 15 ml). Tùy theo số lượng và tốc độ hình thành dịch mà ta có bệnh cảnh lâm sàng tương ứng, từ nhẹ - không có triệu chứng tới nặng - bệnh cảnh ép tim. Dịch màng ngoài tim có thể là máu, dịch thấm hoặc dịch tiết.
2. Các nguyên nhân gây tràn máu màng ngoài tim
Nguyên nhân do chấn thương, vết thương: thường gây ép tim cấp do lượng máu chảy nhanh, màng ngoài tim chưa kịp giãn.
- Chấn thương do đụng giập, do sức ép gây rách hoặc vỡ thành tim hoặc các mạch máu lớn ở vị trí nối với tim.
- Vết thương do vật sắc, nhọn, do đạn gây rách hoặc thủng thành tim, Mạch vành hoặc các mạch máu lớn ở vị trí nối với tim. Nhóm nguyên nhân này bao gồm cả tai biến làm thủng cơ tim hoặc Mạch vành khi chọc dịch màng tim trước đó, hoặc khi làm thủ thuật đặt dây điện cực tạo nhịp tim.
Phình tách động mạch chủ, thường là type A: hay gây ép tim cấp do lượng máu chảy nhanh, màng ngoài tim chưa kịp giãn.
Ngoài ra, chảy máu màng ngoài tim tự phát còn do sử dụng thuốc chống đông. Tràn máu màng ngoài tim do bệnh ung thư, lao.
3. Các nguyên nhân gây tràn dịch màng ngoài tim do dịch tiết
Có nhiều protein trong dịch (> 30 g/l – phản ứng Rivalta dương tính). Ngoài ra, tuỳ nguyên nhân có thể thấy trong dịch có bạch cầu, hồng cầu, fibrine, các tế bào ung thư.
Các nguyên nhân gây dịch tiết trong màng ngoài tim gồm:
- Ung thư: ít khi do ung thư Nguyên phát từ màng ngoài tim mà thường là do di căn từ bộ phận khác tới. Thường dịch màu đỏ, khá nhiều, gây ép tim mạn, tái phát nhanh.
- Lao: dịch thường có màu đỏ, nhiều protein và fibrine, tế bào lympho. Xác định sự có mặt của vi khuẩn lao bằng nuôi cấy dịch với môi trường Lowenstein hoặc làm phản ứng PCR.
- Viêm mủ màng ngoài tim: bệnh cảnh nhiễm trùng. Dịch nhiều protein, thường đục do có nhiều bạch cầu, xác vi khuẩn, nuôi cấy thường mọc vi khuẩn. Nếu do tụ cầu vàng thì thường rất nặng, hay có ép tim cấp mặc dù lượng dịch không nhiều. Viêm mủ màng ngoài tim có thể do nguyên phát, do nhiễm khuẩn huyết, hoặc do vỡ ổ áp xe lân cận như áp xe gan, áp xe phổi, áp xe dưới cơ hoành.
Một số nguyên nhân khác gây dịch tiết trong màng ngoài tim như bệnh hệ thống, nấm, dò bạch mạch, nhất là dò ống ngực.
4. Dịch màng ngoài tim do dịch thấm
Do áp lực thủy tĩnh tăng khi tuần hoàn ứ trệ, hoặc áp lực keo giảm dẫn đến thoát dịch từ lòng mạch vào các màng, trong đó có màng ngoài tim. Lượng protein thấp: < 30 g/l, phản ứng Rivalta âm tính, có thể có 1 lượng không đáng kể các tế bào. Tràn dịch màng ngoài tim do dịch thấm thường số lượng không nhiều, ít khi gây ép tim cấp.
- Do áp lực thủy tĩnh tăng như trong suy tim, suy thận, tắc tĩnh mạch trung tâm, tắc hệ thống bạch mạch.
- Do áp lực keo giảm (thiếu Albumin): hội chứng thận hư, xơ gan, suy giáp.
Việc điều trị tràn dịch màng ngoài tim sẽ phụ thuộc vào mức độ tràn dịch nghiêm trọng hay chưa, nguyên nhân gây ra tràn dịch màng ngoài tim và khả năng biến chứng có thể gặp phải ở người bệnh cũng như tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.