Các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung
Tân sản nội biểu mô cổ tử cung hay nghịch sản cổ tử cung là một trong những bất thường tế bào biểu mô thường gặp của niêm mạc của cổ tử cung, có nguy cơ ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập vào các tầng mô đệm của tử cung. Tình trạng này thường xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa biểu mô lát tầng với biểu mô tuyến hay còn gọi là biểu mô trụ của cổ tử cung.
Tân sản nội biểu mô cổ tử cung thường gặp ở độ tuổi từ 30 - 50 tuổi, là một trong những tổn thương tiền ung thư cổ tử cung do có thể tiến triển thành ung thư tại chỗ dẫn tới xâm lấn cổ tử cung hình thành nên ung thư cổ tử cung. Tổn thương này được hình thành ở biểu mô lát tầng cổ tử cung do sự xâm nhiễm của ít nhất 1 typ HPV nguy cơ cao. Đó là tiền đề của ung thư xâm lấn cổ tử cung.Do đó, việc phát hiện sớm các tổn thương này có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn đoán sớm Ung thư cổ tử cung.
Tùy thuộc theo số lượng tế bào bị tổn thương bất thường mà người ta chia ung thư cổ tử cung thành các giai đoạn như sau:
- CIN I: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm 1⁄3 chiều dày lớp biểu mô.
- CIN II: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm 2⁄3 chiều dày lớp biểu mô.
- CIN III: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm toàn bộ chiều dày của lớp biểu mô.
Ngày nay, để tiện hơn cho việc chẩn đoán và điều trị ung thư cổ tử cung, người ta phân tổn thương tiền ung thư cổ tử cung thành 2 loại là tổn thương biểu mô lát độ thấp (LSIL) và tổn thương trong biểu mô lát độ cao (HSIL) để tương đồng với kết quả Xét nghiệm tế bào học.
Trong các nguy cơ ung thư cổ tử cung xâm lấn ở nữ giới, kết quả HSIL là một trong những yếu tố quan trọng. Theo một nghiên cứu về đánh giá nguy cơ tiền ung thư hoặc ung thư trong 5 năm của HSIL ở phụ nữ trong độ tuổi từ 30 - 64 tuổi cho thấy, ở độ tuổi này, kết quả phết tế bào cổ tử cung bất thường được thể hiện trong bảng HSIL đơn độc, tổn thương trong biểu mô cổ tử cung ở giai đoạn grad 2 hoặc thậm chí nặng hơn.
Nguyên nhân gây ra tiền ung thư cổ tử cung
Nguyên nhân gây nên tiền ung thư cổ tử cung chủ yếu do bị nhiễm ít nhất 1 typ HPV nguy cơ cao ở đường sinh dục mà thường gặp là các typ như 16, 18,31, 33, 35, 39, 41, 45, 51....
Một số yếu tố nguy cơ dẫn tới khả năng bị nhiễm ung thư cổ tử cung:
- Do quan hệ Tình dục sớm.
- Do quan hệ Tình dục không an toàn, không sống chung thủy một vợ một chồng.
- Do sinh con nhiều lần.
- Do vệ sinh bộ phận sinh dục không đúng cách.
- Do điều trị không triệt để các bệnh lý của tử cung và bộ phận sinh dục như viêm nhiễm.
- Hút thuốc lá cũng là một trong những yếu tố nguy cơ góp phần tăng khả năng bị nhiễm ung thư cổ tử cung.
- Do mắc các bệnh lý về suy giảm miễn dịch, đái tháo đường...
Giai đoạn tiền ung thư cổ tử cung thường không có biểu hiện về lâm sàng. Sau giai đoạn này, có khoảng 5 - 10% các bệnh nhân sẽ tiến triển thành ung thư do sự biến đổi của các virus HPV trong tử cung.
Ở những người bị nhiễm virus HPV nguy cơ cao phối hợp với các yếu tố nguy cơ khác sẽ tạo ra các tổn thương ban đầu, các tổn thương này có thể tồn tại và tiến triển trong khoảng từ 10 - 20 năm qua các giai đoạn của tân sản nội biểu mô cổ tử cung để dần hình thành lên ung thư cổ tử cung.
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh lý nguy hiểm, không những gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ mà còn có thể di căn lây lan sang các bộ phận khác gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Do đó cần phát hiện chẩn đoán sớm để có những phương án xử lý ngay từ những ngày đầu nhiễm HPV tránh những ảnh hưởng về sau.
Khám, sàng lọc bệnh lý Phụ khoa cơ bản, giúp khách hàng phát hiện bệnh sớm các bệnh lý viêm nhiễm giúp điều trị dễ dàng, không tốn kém. Sàng lọc phát hiện sớm ung thư Phụ khoa (Ung thư cổ tử cung) ngay cả khi chưa có triệu chứng.
- Chảy máu bất thường vùng âm đạo
- Gặp vấn đề về kinh nguyệt: chu kỳ kéo dài bất thường, kinh nguyệt không đều
- Dịch âm đạo bất thường (có mùi hôi, màu sắc khác bình thường)
- Đau, Ngứa vùng kín
- Khách hàng nữ có một vài yếu tố nguy cơ như vệ sinh cá nhân không tốt, quan hệ tình dục không an toàn, nạo phá thai,...
- Khách hàng nữ có triệu chứng khác như: Dịch âm đạo bất thường, ngứa, đau vùng kín, chảy máu âm đạo bất thường.