1. Polyp tuyến
Khoảng 2/3 của tất cả các polyp là polyp tuyến với 90% có kích thước < 1.5cm.
Polyp tuyến được chia làm 3 loại là tuyến ống (tubular - có thể gặp ở bất kỳ đoạn nào trên đại tràng và có cuống), tuyến nhung mao (vilous - chủ yếu ở trực tràng và không cuống, có nguy cơ ác tính cao nhất) và tuyến ống – nhung mao (tubulovilous).
Chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số đó thực sự trở thành ung thư. Tuy thế, gần như tất cả các polyp ác tính là polyp tuyến. Nguy cơ ác tính phụ thuộc vào kích thước (>2cm) và thành phần nhung mao.
2. Polyp răng cưa
Tùy thuộc vào kích thước và vị trí của nó ở đại tràng, polyp răng cưa có thể trở thành ung thư.
Polyp răng cưa nhỏ, không cuống, tròn, thường < 5mm, gặp ở đoạn cuối đại tràng và trực tràng còn được gọi là polyp tăng sản, hiếm khi ác tính.
Polyp răng cưa lớn - thường là phẳng (không cuống), khó phát hiện và nằm ở đoạn đầu của đại tràng - là tiền ung thư.
3. Polyp Viêm
Dạng polyp này có thể sau một cơn viêm loét đại tràng, bệnh Crohn. Có viêm loét đại tràng, bệnh Crohn làm tăng nguy cơ tổng thể ung thư đại tràng mặc dù bản thân polyp không phải là một mối đe dọa đáng kể.
4. Polyp di truyền
Bệnh hiếm gặp, ở người thừa hưởng đột biến gen gây ra polyp đại tràng. Nếu bạn có một trong những đột biến di truyền, bạn có nguy cơ phát triển bệnh Ung thư đại trực tràng cao hơn. Tầm soát và phát hiện sớm có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển, lây lan của những ung thư này. Rối loạn di truyền gây ra polyp đại tràng bao gồm:
Hội chứng Lynch: Cũng được gọi là Ung thư đại trực tràng di truyền không đa polyp (HNPCC). Những người có hội chứng Lynch có khuynh hướng phát triển tương đối ít polyp đại tràng, nhưng những polyp có thể nhanh chóng trở thành ác tính (5%). Nguyên nhân do có sự đột biến một trong 5 gen sửa lỗi bắt cặp nhiễm sắc thể: MLH1, MSH2, MSH6, PMS1, PMS2.
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo Amsterdam: có tối thiểu 3 người trong phả hệ bị ung thư đại tràng, 1 người là trực hệ trong 2 người còn lại và ít nhất có 1 người bị ung thư đại tràng < 50 tuổi.
Hội chứng Lynch là dạng phổ biến nhất của ung thư đại tràng di truyền và cũng liên quan với các khối u ở vú, dạ dày, ruột non, đường tiết niệu và buồng trứng.
Đa polyp tuyến gia đình (FAP): Bệnh hiếm gặp gây ra hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn polyp phát triển trong niêm mạc ruột già bắt đầu từ thời niên thiếu của bạn. Nếu polyp không được điều trị, gần như 100% phát triển thành ung thư đại tràng, thường là trước tuổi 40. Nguyên nhân do sự đột biến gen APC, giữ vai trò ức chế sự hình thành khối u tân sinh ở đại tràng.
Chẩn đoán dựa vào: u quái trong ổ bụng hay vùng sau trực tràng, phì đại lớp biểu mô sắc tố võng mạc, Nội soi có hang tram polyp ở đại tràng, dạ dày tá tràng. Xét nghiệm di truyền có thể giúp xác định nguy cơ FAP.
Hội chứng Gardner: Một biến thể của FAP gây polyp phát triển suốt ruột già và ruột non. Bạn cũng có thể bị các khối u không phải ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm da, xương và bụng của bạn.
Đa polyp liên quan MYH (MAP): Một bệnh tương tự như FAP được gây ra bởi đột biến ở gen MYH. Những người có MAP thường phát triển đa polyp tuyến và ung thư đại tràng ở độ tuổi trẻ. Xét nghiệm di truyền có thể giúp xác định nguy cơ MAP.
Hội chứng Peutz-Jeghers: Bệnh thường bắt đầu với Tàn nhang phát triển trên khắp cơ thể, bao gồm cả môi, nướu răng và bàn chân. Sau đó, polyp (hamartoma) không phải ung thư phát triển trong suốt ruột. Tuổi xuất hiện triệu chứng là 25. Nguyên nhân do sự đột biến gen STK11.
Những polyp này có thể trở thành ác tính vì vậy người bị bệnh này có nguy cơ ung thư đại tràng.
Hội chứng polyp răng cưa: Một bệnh mà dẫn đến đa polyp tuyến răng cưa ở phần đầu của đại tràng. Những polyp có thể trở thành ác tính.