Phương pháp chẩn đoán bệnh ung thư tuyến giáp

Ung thư tuyến giáp là bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ, đặc biệt bệnh có thể gặp ở phụ nữ trẻ. Việc phát hiện sớm ung thư tuyến giáp có vai trò vô cùng quan trọng, bởi tỉ lệ chữa khỏi ở giai đoạn đầu có thể lên tới gần 100%, và người bệnh có thể sống bình thường, chỉ cần dùng hormone thay thế tuyến giáp. Vậy, Phương pháp nào chẩn đoán bệnh ung thư tuyến giáp?
Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

1. Ung thư tuyến giáp là bệnh gì?

Ung thư tuyến giáp xảy ra khi có sự phát triển bất thường của các tế bào tuyến giáp. Tuyến giáp nằm ở cổ, có vai trò tạo ra hormone kiểm soát sự trao đổi chất. Tế bào ở tuyến giáp được gọi là tế bào nang và tế bào cận nang.

Ung thư bắt nguồn từ tế bào nang gọi là ung thư thể nhú, ung thư nang và ung thư không biệt hóa. Ung thư thể nhú là loại thường gặp nhất, xuất hiện ở những người trẻ. Ung thư nang thường xuất hiện ở người già. Ung thư không biệt hóa là loại nguy hiểm nhất và khó điều trị.

Nếu ung thư bắt đầu từ tế bào cận nang thì gọi là ung thư mô tủy. Ung thư tủy thường xuất hiện dưới dạng ung thư độc lập hoặc trong gia đình, theo dạng di truyền.

2. Sự nguy hiểm của ung thư tuyến giáp

Hầu hết những bệnh nhân ung thư tuyến giáp giai đoạn đấu có biểu hiện là khối u nhưng không đau. Càng về sau với sự phát triển của bệnh, bệnh nhân sẽ bắt đầu thấy đau hơn, triệu chứng đau đớn tiến triển theo sự phát triển của tế bào và giai đoạn bệnh.

Khối u phát triển dần có thể chèn ép vào khí quản, thực quản hoặc dây Thần kinh họng sẽ gây ra các triệu chứng khó thở, nuốt khó, khàn tiếng… Nếu bỏ lỡ việc điều trị kịp thời có thể nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.

3. Phương pháp chẩn đoán bệnh ung thư tuyến giáp

Xạ hình tuyến giáp

  • Xạ hình tuyến giáp là xét nghiệm cơ bản trong việc chẩn đoán căn bệnh ung thư tuyến giáp. Xét nghiệm thực hiện bằng cho bệnh nhân uống dung dịch chứa i-ốt phóng xạ. Chất này khi đi vào cơ thể sẽ tập trung về tuyến giáp và thể hiện được hình ảnh của tuyến.
  • Nếu dung dịch trên tập trung tại nhân mà không có ở phần còn lại của tuyến giáp thì đó là nhân nóng, nguy cơ ác tính thấp. Nhưng ngược lại, thấy giảm hoặc không có phóng xạ tại nhân thì đó là nhân lạnh, nguy cơ ác tính cao.
  • Mặt hạn chế của xạ hình tuyến giáp là có thể bị nhầm lẫn nếu khối u nhỏ (bé hơn 1cm).

Xét nghiệm tế bào

  • Xét nghiệm tế bào được thực hiện ở trên khối u tuyến giáp ở hạch cổ. Thông thường, kết quả của xét nghiệm này khá chính xác và mang lại nhiều thông tin hữu ích cho bác sĩ trong quá trình chẩn đoán và điều trị.

Xét nghiệm sinh hóa

  • Định lượng nồng độ Calcitonin: Đây là xét nghiệm được chỉ định chẩn đoán ung thư tuyến giáp, nhất là ung thư biểu mô dạng tủy, đo chất này trong máu có thể biết được tình trạng còn sót lại hay tái phát

Siêu âm và chụp cắt lớp

Siêu âm và chụp cắt lớp cho phép phân biệt những thương tổn thể rắn với lỏng. Xét nghiệm này có thể làm rõ thương tổn có kích thước nhỏ (3 – 4mm) trong trường hợp di căn có tính chất chỉ điểm

Siêu âm đàn hồi mô tuyến giáp là một phương pháp mới trong chẩn đoán sớm ung thứ giáp:

  • Siêu âm đàn hồi mô là một kỹ thuật siêu âm đánh giá độ cứng của mô thông qua mức độ đàn hồi của mô khi chịu tác động của lực cơ học.
  • Các mô bệnh lý có thể có cùng độ phản hồi âm, nhưng chúng có độ cứng khác nhau, các mô càng ác tính thì độ cứng càng tăng. Vì vậy khi đánh giá được độ cứng của mô tổn thương sẽ cung cấp thêm thông tin về bản chất của mô đó. Những mô bệnh lý có cùng độ phản hồi âm thì trên hình ảnh siêu âm B mode khó phân biệt tính chất lành tính hay ác tính, siêu âm Doppler có thể hỗ trợ thêm cho nhận định, những khối u ác thường tăng sinh mạch máu nhiều, nhưng nhiều trường hợp sự tăng sinh mạch máu cũng không rõ ràng vì vậy vẫn khó nhận định tính chất lành tính hay ác tính. Siêu âm đàn hồi mô sẽ giúp bổ xung thêm thông tin về đặc tính của mô tổn thương để làm tăng khả năng chẩn đoán. Siêu âm đàn hồi mô luôn được làm cùng siêu âm B – mode, không bao giờ làm siêu âm đàn hồi mô đơn độc.


Đánh giá tổn thương tuyến giáp trực tiếp trên máy APLIO:

Khi làm siêu âm B-mode thấy một ổ tổn thương giảm âm, bên cạnh việc nhận định hình thái tổn thương, chúng ta phân loại theo TIRAD để nhận định mức độ lành hay ác tính, thăm dò Doppler để đánh giá tình trạng tưới máu, và làm elastogram để nhận định độ cứng sẽ cho phép đánh giá tính chất lành tính hay ác tính của tổn thương chính xác hơn và chỉ định sinh thiết chuẩn xác hơn.

Siêu âm tuyến giáp: siêu âm B-mode thấy một tổn thương giảm âm (mũi tên) bờ không rõ nằm ngang tương ứng TIRAD 3a, nhưng khi làm elastogram thấy toàn bộ tổn thương là màu xanh dương (rất cứng), diện tích tổn thương lớn hơn ảnh B-mode và lan theo chiều dọc chứng tỏ tổn thương đã xâm lấn ra xung quanh gây cứng. Kết luận đây là một tổn thương ác tính.

Siêu âm tuyến giáp. Hình dưới là B – mode cho thấy một nân hỗn hợp tuyến giáp có TI-RAD 3b, nhưng khi làm Elastogram (hình trên) nhân có màu đỏ đậm 160kPa (rất cứng) xâm lấn xuống phía dưới, mô alân cận có màu vàng 108kPa. Đây là một ung thư tuyến giáp không cần sinh thiết.

Siêu âm tuyến giáp. Hình dưới là B – mode cho thấy một tổn thương ở vùng eo tuyến ranh giới không rõ khó phân biệt với mô lành. Hình trên là Elastogram vùng tổn thương có màu đỏ đậm 150kPa (rất cứng) lan theo chiều dọc, mô xung quanh có màu vàng 108kPa (cứng). Đây là một ung thư thuyến giáp không cần sinh thiết.

Chính vì vậy mà siêu âm đàn hồi mô được coi như một bước ngoặt trong ngành siêu âm. Siêu âm đàn hồi mô cho phép đánh giá độ cứng của mô, nó tạo ra bước ngoặt thứ hai của chẩn đoán siêu âm, cho phép đánh giá tính chất của mô tổn thương. Loại siêu âm này được tích hợp trên máy TOSHIBA APLIO 500 giúp chúng ta nâng độ đặc hiệu của chẩn đoán, giúp cho thu hẹp chỉ định sinh thiết mà không bỏ sót tổn thương.

Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Đã kiểm duyệt nội dung