Lao phổi

Bệnh Lao Phổi là tình trạng nhiễm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, thường gặp nhất ở phổi. Lao phổi là một bệnh lây truyền từ người này sang người qua không khí, vi khuẩn lao có trong đờm rãi của bệnh nhân khi ho, khạc, hắt hơi. Người lành hít phải sẽ bị nhiễm lao. Hầu hết người bị nhiễm lao không có bất kỳ triệu chứng cụ thể nào. Vi khuẩn có thể bất động (gọi là lao tiềm ẩn) trong cơ thể và có thể bị kích hoạt lại nhiều năm sau đó khi hệ miễn dịch trở nên suy yếu. Bệnh mãn tính, suy dinh dư

Triệu chứng

Triệu chứng phụ thuộc vào các hệ thống cơ quan bị nhiễm lao.

Chẩn đoán

Chẩn Đoán Bệnh Lao Phổi

Lao phổi: sốt, ho, ra mồ hôi đêm, sụt cân, ho có đờm lẫn máu, đau ngực.

Lao viêm màng não: đau đầu, nôn mửa, cứng cổ

Lao lan tỏa đến các bộ phận khác của cơ thể qua máu hoặc hạch bạch huyết: nhiều triệu chứng bao gồm đau bụng, nôn, đi tiểu đau, đau xương...

Điều trị

Điều trị bệnh lao phổi là Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI), xét nghiệm nước tiểu (UA), siêu âm.

Tổng quan

Bệnh Lao phổi là gì?

Bệnh Lao Phổi là tình trạng nhiễm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, thường gặp nhất ở phổi. Lao phổi là một bệnh lây truyền từ người này sang người qua không khí, vi khuẩn lao có trong đờm rãi của bệnh nhân khi ho, khạc, hắt hơi. Người lành hít phải sẽ bị nhiễm lao. Hầu hết người bị nhiễm lao không có bất kỳ triệu chứng cụ thể nào. Vi khuẩn có thể Bất động (gọi là lao tiềm ẩn) trong cơ thể và có thể bị kích hoạt lại nhiều năm sau đó khi hệ miễn dịch trở nên suy yếu. Bệnh mãn tính, suy dinh dưỡng, nghiện rượu, sử dụng các loại thuốc, HIV/AIDS và các bệnh ung thư đều có thể ức chế hệ thống miễn dịch dẫn đến sự lây lan của bệnh. Sau đó các nhiễm trùng phổi ban đầu có thể lan rộng đến tất cả các bộ phận của cơ thể, bao gồm thận, cột sống hoặc não.

Lao phổi - Ảnh minh họa 1
Lao phổi - Ảnh minh họa 2
Lao phổi - Ảnh minh họa 3
Lao phổi - Ảnh minh họa 4
Lao phổi - Ảnh minh họa 5

Nguyên nhân

Định nghĩa

Lao là tình trạng nhiễm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, thường gặp nhất ở phổi nhưng cũng có thể lao màng não, hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn (lao kê), hệ niệu dục, xương và khớp. Hiện nay, lao là bệnh nhiễm khuẩn chính và thường gặp nhất, ảnh hưởng đến 2 tỉ người - tức 1/3 dân số, với 9 triệu ca mắc mới mỗi năm, gây tử vong tới 2 triệu ca, hầu hết ở các nước đang phát triển. Gần 90% các trường hợp nhiễm lao là tiềm ẩn không triệu chứng, 10% những người này trong cuộc đời họ sẽ tiến triển thành bệnh lao có triệu chứng nếu không điều trị kịp thời sẽ gây tử vong hơn 50% số bệnh nhân. Lao là 1 trong 3 bệnh truyền nhiễm gây tử vong cao nhất trên thế giới: HIV/AIDS giết 3 triệu người, lao giết 2 triệu người và sốt rét giết 1 triệu người mỗi năm. Sự sao nhãng trong các chương trình kiểm soát lao, sự bùng phát của đại dịch HIV/AIDS và việc di dân đã khiến bệnh lao trỗi dậy. Các chủng lao kháng đa thuốc (MDR, multiple drug resistant) đang tăng. Năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố tình trạng khẩn cấp toàn cầu đối với bệnh lao.

Những loại lao thường gặp

  • Lao ngoài phổi: Có thể gặp lao hạch bạch huyết, lao màng phổi, lao màng não, lao màng bụng, lao ruột, lao xương khớp, lao hệ sinh dục - tiết niệu. Những người bị bệnh lao ngoài phổi không có nguy cơ truyền bệnh cho người khác. 

  • Lao phổi: Thể lao hay gặp nhất là lao phổi, chiếm tới 80% các trường hợp mắc bệnh lao. Những người mắc bệnh lao phổi xét nghiệm đờm có vi trùng lao là nguồn lây truyền bệnh cho người sống xung quanh. Người mắc bệnh lao phổi nhưng xét nghiệm đờm không tìm thấy vi trùng lao (do số lượng vi trùng trong ổ tổn thương ít) thì khả năng lây bệnh ít hơn rất nhiều. Do vậy, không phải ai mắc bệnh lao phổi cũng có nguy cơ lớn lây truyền bệnh cho người khác, sự lây truyền bệnh còn phụ thuộc vào số lượng vi trùng lao ở người bệnh.

Phân loại

Có nhiều cách phân loại bệnh lao. Hai cách phân loại phổ biến là phân loại theo vị trí tổn thương và phân loại theo tiền sử dùng thuốc. 

  • Phân loại theo vị trí tổn thương: Trong phân loại này, bệnh lao được chia làm 2 loại: Lao phổi và lao ngoài phổi.

    • Lao phổi: Lao phổi có trực khuẩn lao trong đờm. Bệnh nhân thuộc loại này là những người có 1 trong 3 điều kiện sau:

      • Có từ 2 lần xét nghiệm đờm trở lên (từ 2 mẫu đờm khác nhau) tìm thấy trực khuẩn lao.

      • Có một xét nghiệm đờm tìm thấy trực khuẩn lao và có hình ảnh tổn thương liên quan đến lao phổi trên phim chụp X-quang phổi.

      • Có một tiêu bản đờm và nuôi cấy dương tính. 

Hoặc có 1 trong 2 điều kiện sau:

      • 3 lần xét nghiệm trở lên đều không tìm thấy trực khuẩn lao trong đờm, có hình tổn thương trên phim X-quang phổi nghĩ tới lao phổi.

      • Tiêu bản đờm âm tính và nuôi cấy dương tính.

    • Lao ngoài phổi: Là thể lao ở các tạng như lao hạch, lao xương khớp, lao màng não, lao sinh dục-tiết niệu, lao ruột, lao màng bụng, lao màng ngoài tim, lao da, v.v... Thuộc loại lao này là các bệnh nhân đạt 1 trong 2 điều kiện dưới đây:

      • Bệnh phẩm lấy từ các tạng (ngoài phổi) như màng phổi, màng bụng, hạch, v.v... nuôi cấy có kết quả dương tính.

      • Bệnh phẩm mô học lấy từ các tạng nghĩ tới bệnh lao hoặc bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng nghĩ tới bệnh lao.

  • Phân loại theo tiền sử dùng thuốc chống lao: Theo phân loại này, bệnh nhân được chia làm: Bệnh nhân mới, bệnh nhân cũ (mạn tính), bệnh nhân lao tái phát, bệnh nhân lao điều trị thất bại.

    • Bệnh nhân lao mới. Là những bệnh nhân trước đây chưa từng mắc lao, chưa từng chữa lao và mới dùng thuốc chống lao dưới 01 tháng.

    • Bệnh nhân lao cũ (mạn tính): Là những bệnh nhân sau khi đã dùng công thức điều trị lại bệnh lao, có giám sát việc dùng thuốc chặt chẽ vẫn tìm thấy trực khuẩn lao trong đờm.

    • Bệnh nhân lao tái phát.

    • Bệnh nhân lao điều trị thất bại.

Phòng ngừa

Vi khuẩn gây lao

Tác nhân gây bệnh lao, Mycobacterium tuberculosis, là vi khuẩn hiếu khí. Vi khuẩn này phân chia 16-20 giờ/lần, rất chậm so với thời gian phân chia tính bằng phút của các vi khuẩn khác (trong số các vi khuẩn phân chia nhanh nhất là chủng E. coli, có thể phân chia 20 phút/lần). Mycobacterium tuberculosis không được phân loại gram dương hay gram âm vì chúng không có đặc tính hoá học này, mặc dù thành tế bào có chứa peptidoglycan. Trên mẫu nhuộm gram, nó nhuộm gram dương rất yếu hoặc không có biểu hiện gì. Trực khuẩn lao có hình dạng giống que nhỏ, có thể chịu được chất sát khuẩn yếu và sống sót trong trạng thái khô trong nhiều tuần, nhưng trong điều kiện tự nhiên chỉ có thể phát triển trong sinh vật ký chủ (cấy M. tuberculosis in vitro cần thời gian dài để có kết quả nhưng là công việc bình thường ở phòng xét nghiệm). Trực khuẩn lao được xác định dưới kính hiển vi bằng đặc tính nhuộm của nó: vẫn giữ màu nhuộm sau khi bị xử lý với dung dịch acid, vì vậy nó được phân loại là "trực khuẩn kháng acid" (acid-fast bacillus, viết tắt là AFB). Với kỹ thuật nhuộm thông thường nhất là nhuộm Ziehl-Neelsen, AFB có màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh. Trực khuẩn kháng acid cũng có thể được xem bằng kính hiển vi huỳnh quang và phép nhuộm auramine-rhodamine. Phức hợp M. tuberculosis gồm 3 loài mycobacterium khác có khả năng gây lao: M. bovis, M. africanum và M. microti. Hai loài đầu rất hiếm gây bệnh và loài thứ 3 không gây bệnh ở người.

Nguyên nhân gây lao

  • Do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra bệnh lao, lây nhiễm qua đường hô hấp từ người này sang người kia. 

  • Do thường xuyên hoạt động ở nơi bị ô nhiễm, nhiều uế khí, nơi ẩm ướt tối tăm, bụi bẩn - điều kiện để vi khuẩn lao phát triển gây bệnh. Do tiếp xúc trực tiếp với người mắc bệnh, tiếp xúc với chất thải có chứa vi khuẩn lao như đờm, dãi, nước bọt khi ho, hắt hơi…Ngoài ra có thể do ăn phải thực phẩm bị nhiễm vi khuẩn lao, tiếp xúc với thú nuôi nhiễm lao, khi chăm sóc thú bị chúng cào xước… cũng dễ mắc lao da, lao ống tiêu hóa, lao dạ dày,…

Bệnh lao tấn công cơ thể bằng cách nào?

  • Nhiễm lao tức là có vi trùng bệnh lao trong người. Thông thường hệ miễn dịch (đề kháng) có thể chiến đấu chống lại vi khuẩn, khiến chúng không hoạt động. Trong khoảng 90% trường hợp, vi trùng bệnh lao sẽ không hoạt động vĩnh viễn, người bị nhiễm lao không lâm bệnh và không thể lây bệnh lao cho người khác. Trường hợp này gọi là nhiễm lao tiềm tàng.

  • Bệnh lao là bệnh do vi trùng lao hoạt động gây ra. Người bị nhiễm vi trùng lao có thể bị bệnh trong một thời gian ngắn sau đó hoặc nhiều năm sau, khi hệ miễn dịch bị suy yếu vì nguyên nhân khác như tuổi già, bệnh tiểu đường, nhiễm HIV, bệnh thận hoặc ung thư. Người bị bệnh lao có vi trùng lao hoạt động cộng thêm triệu chứng bệnh.

Điều trị

Tại hộ gia đình

Người nghi nhiễm lao được khám xét nghiệm phát hiện sớm. Điều trị theo 4 nguyên tắc:

  • Tiêm phòng BCG cho trẻ sơ sinh và trẻ dưới 01 tháng tuổi.

  • Khi có người bệnh lao phổi AFB (+): Tránh tiếp xúc với trẻ dưới 5 tuổi và người có HIV. Ở phòng riêng, thông thoáng khí. Ho khạc, gom đờm đúng cách.

  • Giữ vệ sinh môi trường.

Tại các cơ sở y tế

  • Biện pháp hành chính:

    • Chuyển sớm người nhiễm lao tới cơ sở y tế chuyên khoa.

    • Ưu tiên khám và chuyển người nhiễm lao khám lao sớm, hạn chế thời gian tiếp xúc.

  • Biện pháp xử lý môi trường:

  • Thông gói là rất quan trọng cho những nơi có mật độ người tập trung cao.

  • Lau dọn, tẩy trùng trong phòng khám, phòng bệnh hàng ngày.

  • Nếu cơ sở đăng ký chuyên khoa có nơi lấy bệnh phẩm đờm, cần bố trí xa chỗ đông người, thông thoáng, cuối chiều gió, người bệnh không phải đi qua chỗ đông người.

  • Nhân viên y tế khi tiếp xúc với người bệnh cần đeo khẩu trang, rửa tay bằng xà phòng ngay sau khi khám bệnh.

  • Người bệnh có dấu hiệu nghi lao phải đeo khẩu trang thường xuyên tại những nơi có đông người.

  • Bệnh lao có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị đúng cách. Chữa khỏi bệnh lao là cách phòng bệnh tốt nhất.

  • Hướng dẫn người bệnh ho, khạc nhổ, gom đờm đúng cách.

  • Khám sức khỏe định kỳ cho nhân viên y tế 06 tháng/lần.