Tên gọi khác: Ngã nước
Triệu chứng
Các triệu chứng phụ thuộc vào loại bệnh sốt rét, bao gồm: ớn lạnh, sốt, cơn sốt kéo dài từ 2 đến 8 giờ
Chẩn đoán
- Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Điều trị
Thuốc chống sốt rét có thể được chỉ định cho người đi du lịch đến các khu vực nơi bệnh sốt rét là phổ biến: Mefloquine, Doxycycline
Tổng quan
Ngã nước hay Malaria là gì?
Sốt rét còn gọi là ngã nước là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên Plasmodium, lây truyền qua vết cắn của muỗi Anopheles. Có năm loại khác nhau của ký sinh trùng Plasmodium với các Plasmodium falciparum là nguy hiểm nhất. Bệnh phân bố tại Trung và Nam Mỹ, châu Phi và châu Á. Bệnh nhân thường có các triệu chứng bắt đầu 1 - 3 tuần sau khi bị muỗi cắn. Bệnh Sốt rét cũng có thể lây truyền từ người này qua người khác qua truyền máu, cấy ghép nội tạng, sử dụng chung các thiết bị thuốc tiêm với người bị nhiễm bệnh và lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ Mang thai hoặc sinh. Đây là một trong những căn bệnh phổ biến nhất thế giới khiến hơn 1 triệu người tử vong mỗi năm.
Triệu chứng
Các triệu chứng phụ thuộc vào loại bệnh sốt rét, bao gồm: ớn lạnh, sốt, cơn sốt kéo dài từ 2 đến 8 giờ, vã mồ hôi, nhức đầu, buồn nôn, nôn, đau cơ, thiếu máu, phân có máu, vàng da, co giật, hôn mê và tử vong.
Chẩn đoán
- Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
- Xét nghiệm kính phết mẫu máu dưới kính hiển vi sẽ giúp nhìn thấy các ký sinh trùng trong máu và xác định chẩn đoán.
- Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), Xét nghiệm kính phết (lấy mẫu máu của bệnh nhân phết lên bản kính để soi kính hiển vi).
Điều trị
Thuốc chống sốt rét có thể được chỉ định cho người đi du lịch đến các khu vực nơi bệnh sốt rét là phổ biến: Mefloquine, Doxycycline, Chloroquine, Hydroxychloroquine, hoặc Malarone (Atovaquone và Proguanil hydrochloride).
Nguyên nhân
Ở nước ta có khoảng 45 triệu dân sống trong vùng có lưu hành sốt rét, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Bệnh có nhiều ở các vùng rừng núi, vùng ven biển nước lợ và dễ gây thành dịch.
Đặc biệt là các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên hoặc những vùng đồng bằng và thành phố có số đông người thường xuyên qua lại vùng sốt rét lưu hành để làm ăn sinh sống thì luôn có số lượng lớn những người mắc sốt rét và có sự gia tăng rõ rệt vào những tháng đầu mùa mưa.
Triệu chứng của bệnh thường xảy ra sau 8 - 25 ngày ủ bệnh. Có các biểu hiện như người bị cảm cúm. Các triệu chứng điển hình của bệnh sốt rét là kịch phát, đó là sự xuất hiện theo chu kỳ của cơn lạnh đột ngột sau đó run rẩy và sau đó sốt và đổ mồ hôi. Một cơn sốt thường kéo dài từ 2 đến 8 giờ, và ngoài cơn sốt bệnh nhân không có cảm giác bị bệnh. Sốt thường sẽ cao từ từ hoặc cao đột ngột rồi hạ sốt dần và người bệnh lại cảm thấy bình thường. Ngoài ra có thể có các triệu chứng đi kèm khác như là: nhức đầu, mệt mỏi, suy nhược, buồn nôn, đau cơ, rối loạn tiêu hóa…
Người mắc bệnh sốt rét thường xuyên bị thiếu máu, người gầy, da xanh, niêm mạc mắt nhợt. Sốt rét có thể làm cho lách to, phù nề do suy dinh dưỡng, phụ nữ có thai mắc sốt rét dễ bị đẻ non, sảy thai, thai chết lưu, trẻ em mắc sốt rét dễ bị suy dinh dưỡng, chậm lớn. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh dễ thành nguồn dịch lây truyền nhanh chóng từ người này sang người khác. Dễ chuyển thành ác tính và dẫn đến tử vong.
Lưu ý: Nếu thấy người cảm thấy có các triệu chứng hay dấu hiệu như trên, cần theo dõi nhiệt độ cơ thể thường xuyên bằng nhiệt kế hồng ngoại. Nếu uống thuốc hạ sốt không thấy đỡ, không nên tiếp tục cho uống mà cần đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để chẩn đoán và có phương pháp điều trị phù hợp nhất.
Phòng ngừa
Có khoảng 170 loài Plasmodium, nhưng chỉ có 4 loài gây sốt rét ở người là:
- P. falciparum: Chủ yếu gặp ở châu Phi, gây triệu chứng nặng nhất và chiếm phần lớn các trường hợp tử vong do sốt rét.
- P. vivax: Chủ yếu gặp ở vùng nhiệt đới của châu Á, gây triệu chứng nhẹ hơn những có thể tồn tại trong gan và gây tái phát bệnh trong nhiều năm.
- P. malariae: Được phát hiện thấy ở châu Phi, có thể gây triệu chứng sốt rét điển hình nhưng trong một số ít trường hợp có thể nằm yên trong máu mà không gây triệu chứng. Bệnh nhân có thể làm lây ký sinh trùng sang người khác qua vết đốt của muỗi hoặc qua truyền máu.
- P. ovale: Chủ yếu gặp ở vùng Tây Phi. Tuy hiếm gặp nhưng cũng có thể gây bệnh tái phát.
Điều trị
Có nhiều phương pháp khác nhau để phòng chống muỗi truyền bệnh sốt rét:
- Người ta có thể diệt muỗi bằng hóa chất hoặc ngăn sự tiếp xúc giữa người và muỗi truyền bệnh. Vì đa số muỗi sốt rét vào nhà đốt rồi nghỉ lại trong nhà nên các chương trình phòng chống sốt rét ở một số nước nhiệt đới coi trọng việc phun hóa chất có tác dụng diệt côn trùng kéo dài vào tường vách.
- Hiện nay, các vùng có nguy cơ cao mắc bệnh sốt rét thì biện pháp dùng màn tẩm hóa chất trong cộng đồng để phòng chống muỗi được sử dụng nhiều.
- Phương pháp mang lại kết quả lâu dài là san lấp các ao tù, vũng nước để loại trừ các ổ loăng quăng (ấu trùng của muỗi). Ngoài ra người ta cũng có thể loại trừ các ổ loăng quăng bằng cách thường xuyên vớt rong, cỏ hai bên bờ ao, khơi thông dòng chảy hoặc thả cá vào bể, chum, vại chứa nước để cá ăn loăng quăng.
- Ở các vùng có bệnh sốt rét lưu hành, bà con cũng cần chú ý thực hiện một số biện pháp nhằm ngăn cản sự tiếp xúc giữa muỗi và người như mặc quần dài, áo tay dài khi đi làm nương, làm rừng, bôi thuốc xua muỗi lên những nơi da hở, đốt hương muỗi, dọn dẹp nhà cửa gọn gàng…
- Bà con cũng có thể đóng lưới ở tất cả các cửa sổ cũng như cửa ra vào và sử dụng quạt máy để giảm tối đa sự xâm nhập của muỗi vào nhà. Và điều quan trọng nhất, hữu hiệu nhất để phòng chống sốt rét hiện nay là "ngủ màn thường xuyên, màn phải được tẩm hóa chất và phun hóa chất diệt muỗi".