1. Suy thận mạn giai đoạn cuối
Khi bị suy thận mạn giai đoạn cuối cũng đồng nghĩa với việc thận không còn đủ khả năng để hoạt động tốt, đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Theo nghiên cứu, bệnh suy thận mạn thường sẽ không tiến triển tới giai đoạn cuối cho đến ít nhất 10 hoặc 20 năm sau khi được chẩn đoán. Suy thận mạn giai đoạn cuối là giai đoạn thứ 5 theo quá trình tiến triển của bệnh và được đánh giá bằng mức độ lọc cầu thận (GFR).
Nguyên nhân phổ biến nhất được cho là gây ra suy thận mạn giai đoạn cuối là do tăng huyết áp và đái tháo đường. Một vài nguyên nhân khác cũng có thể dẫn đến suy thận mạn tính giai đoạn cuối có thể là:
- Do tắc nghẽn lâu dài đường tiết niệu do sỏi thận, một số loại ung thư hoặc tuyến tiền liệt tăng sinh quá mức.
- Do viêm cầu thận mạn, Lupus ban đỏ hệ thống.
- Nước tiểu chảy ngược vào thận khi trào ngược bàng quang – niệu quản.
- Có những bất thường ở ổ bụng bẩm sinh.
2. Biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối
Một số biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối có thể kể đến gồm:
- Người bệnh sẽ bị nhiễm trùng da do Da khô và gây Ngứa ngáy khó chịu
- Tăng nguy cơ bị nhiễm trùng trong cơ thể
- Xương yếu đi nhiều
- Tổn thương thần kinh
- Thay đổi nồng độ đường huyết
- Nồng độ chất điện giải bất thường
- Đau cơ xương khớp.
Đặc biệt, người bệnh có thể sẽ xuất hiện một số biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối mặc dù ít phổ biến nhưng nghiêm trọng hơn như:
3. Suy thận mạn giai đoạn cuối sống được bao lâu?
“Suy thận mạn giai đoạn cuối sống được bao lâu?” điều này còn tùy thuộc và tình trạng sức khỏe cũng như khả năng đáp ứng sau điều trị của người bệnh. Thông thường, khi bị suy thận mạn giai đoạn cuối thì bệnh nhân có chỉ định điều trị thay thế thận, bao gồm 3 phương pháp: Thận nhân tạo, Ghép thận và lọc màng bụng.
Ghép thận: Là kỹ thuật lấy thận của người khỏe mạnh để ghép cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối, thận ghép sau khi hồi phục sẽ hoạt động như bình thường. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị còn phụ thuộc vào thận có phù hợp với người nhận hay không, ngoài ra, người bệnh còn phải đối diện với nguy cơ thải ghép và một số tác dụng phụ của thuốc thải ghép gây ra.
Thận nhân tạo: Đối với phương pháp này, bệnh nhân cần đến bệnh viện thực hiện chạy Thận nhân tạo 1 tuần từ 2 - 4 lần, thời gian cho mỗi lần chạy thận thường kéo dài từ 4 - 6 tiếng tùy tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Lọc màng bụng: Màng bụng thực chất là một màng bán thấm cho nước và các chất hòa tan đi qua, bác sĩ sẽ lợi dụng cơ chế này để lọc các chất cặn bã ra khỏi cơ thể người bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối. Phương pháp điều trị suy thận mạn tính này khá đơn giản và bệnh nhân có thể chuẩn bị thiết bị kỹ thuật để hằng ngày thực hiện lọc màng bụng ngay tại nhà.
Để đề phòng những biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối thì mỗi người bệnh cần chủ động trang bị cho bản thân những kiến thức cần thiết về căn bệnh này, thăm khám sức khỏe định kỳ để được nghe tư vấn của bác sĩ về cách điều trị và xây dựng chế độ Dinh dưỡng lành mạnh, an toàn.