1. Kháng sinh điều trị Viêm âm đạo do Trichomonas
Trichomonas là chủng vi sinh khá nhạy nếu được điều trị đúng tác nhân. Trong đó, nếu được điều trị kháng sinh càng sớm sẽ nhanh chóng làm giảm các triệu chứng khó chịu cho người phụ nữ cũng như làm giảm khả năng lây truyền cho bạn tình. Hơn thế nữa, các dấu hiệu suy giảm miễn dịch ở phụ nữ nhiễm HIV cũng sẽ được ngăn chặn quá trình tiến triển một phần nào khi điều trị bằng Viêm âm đạo do trichomonas.
Chế độ khuyến nghị cho kháng sinh điều trị nhiễm trichomonas là:
- Metronidazole 2 g uống trong một liều duy nhất, hoặc là Tinidazole 2 g uống trong một liều duy nhất.
- Phác đồ thay thế là Metronidazole 500 mg uống hai lần một ngày trong 7 ngày.
Cần tránh uống rượu tuyệt đối trong quá trình điều trị nhiễm trichomonas. Uống rượu trong khi dùng thuốc có thể gây buồn nôn, nôn, chuột rút, đỏ bừng và đau đầu. Mặt khác, để giảm khả năng phản ứng với kháng sinh, việc cai rượu vẫn nên tiếp tục trong 24 giờ sau khi uống metronidazole hoặc 72 giờ sau khi uống tinidazole. Uống rượu trong khi dùng một trong hai loại thuốc có thể gây buồn nôn, nôn, chuột rút, đỏ bừng và đau đầu.
Theo nguyên cứu, các nitroimidazoles là nhóm thuốc chống vi trùng duy nhất được biết là có hiệu quả trong điều trị nhiễm trichomonas tại âm đạo. Trong số các loại thuốc này, metronidazole và tinidazole là hai biệt dược kể trên đã được điều chế sử dụng bằng đường uống hoặc đường tiêm nhằm tiêu diệt trichomonas. Trong đó, tinidazole thường có chi phí cao hơn nhưng lại đạt nồng độ thuốc cao hơn trong Huyết thanh và tại đường sinh dục với thời gian bán hủy dài hơn metronidazole. Hơn thế nữa, tinidazole cũng được quan sát thấy có ít tác dụng phụ trên đường tiêu hóa hơn so với metronidazole.
Theo các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, metronidazole với liều khuyến nghị như trên đã cho kết quả tỷ lệ chữa khỏi khoảng 84% và với tinidazole là khoảng 92%. Khi so sánh liều 2 g của metronidazole và tinidazole, các nhà nghiên cứu cho thấy tinidazole có hoạt lực tương đương hoặc có phần vượt trội so với metronidazole trong việc tiêu diệt vi trùng và giải quyết các triệu chứng cho người bệnh viêm âm đạo.
Dưới dạng điều chế là gel bôi tại chỗ hay thuốc đặt trị nấm trichomonas, metronidazole đã cho thấy không đạt được mức độ điều trị cao. Do đó, vì ít hiệu quả hơn metronidazole đường uống, dạng điều chế này không được khuyến khích sử dụng phổ biến.
2. Những điều cần lưu ý trong quá trình điều trị viêm âm đạo do Trichomonas
Những phụ nữ bị viêm âm đạo do Trichomonas được khuyến cáo là nên kiêng quan hệ Tình dục cho đến khi họ và bạn tình được điều trị dứt điểm hay nên sử dụng bao cao su. Thời điểm đánh giá hiệu quả điều trị được xem là khi thời gian điều trị đã kết thúc và mọi triệu chứng viêm âm đạo tại chỗ cũng như toàn thân đã được giải quyết. Ngoài ra, các xét nghiệm tìm những bệnh lý lây truyền qua đường Tình dục khác, bao gồm cả HIV, cũng nên được thực hiện ở những người đã mắc phải viêm âm đạo do Trichomonas.
Bên cạnh việc điều trị nhiễm trichomonas trên bản thân người phụ nữ, việc điều trị đồng thời cả bạn tình là rất quan trọng để làm giảm triệu chứng và ngăn ngừa lây truyền cũng như khả năng tái nhiễm. Hơn nữa, người đối tác cũng nên được khuyến cáo là tránh giao hợp cho đến khi bản thân họ và bạn tình đã được điều trị viêm âm đạo đầy đủ và các triệu chứng đã được giải quyết.
Do tỷ lệ tái nhiễm cao ở những phụ nữ được điều trị nhiễm trichomonas, thường trong vòng 3 tháng sau đó, các đối tượng này nên được kiểm tra lại sự hiện diện của Trichomonas tại âm đạo khi đã có hoạt động tình dục trong vòng 3 tháng, bất kể bạn tình có đã được điều trị hay không.
3. Điều trị viêm âm đạo do Trichomonas dai dẳng hoặc tái phát
Nhiễm trùng tại âm đạo dai dẳng hoặc tái phát do trichomonas đề kháng kháng sinh hoặc vì các nguyên nhân khác nên được phân biệt với khả năng tái nhiễm từ bạn tình không được điều trị hay không tuân thủ.
Mặc dù hầu hết các trường hợp viêm âm đạo do Trichomonas tái phát đều được cho là do tái nhiễm trùng, một số ít trường hợp xảy ra là do vi trùng đề kháng kháng sinh. Thực vậy, tỷ lệ kháng metronidazole xảy ra từ 4 đến 10% các trường hợp nhiễm trichomonas âm đạo và kháng tinidazole cũng xấp xỉ ở khoảng 1%.
Tuy vậy, hiện nay vẫn có khá ít các điều thay thế cho liệu pháp tiêu chuẩn đang được khuyến nghị. Theo đó, nếu thất bại điều trị đã xảy ra sau khi điều trị nhiễm trichomonas với metronidazole 2g liều duy nhất và hoàn toàn loại trừ khả năng tái nhiễm, bệnh nhân (và cả bạn tình) cần chuyển qua điều trị bằng metronidazole 500 mg uống hai lần mỗi ngày trong 7 ngày. Nếu chế độ này tiếp tục thất bại, bác sĩ sẽ xem xét điều trị bằng metronidazole hoặc tinidazole ở mức 2 gam uống trong 7 ngày. Trong trường hợp phải cần liều cao hơn, bệnh nhân sẽ có chỉ định nhập viện.
4. Các cân nhắc đặc biệt khi điều trị viêm âm đạo do Trichomonas với nhóm nitroimidazole
Khả năng bị dị ứng, không dung nạp và có thể xảy ra các phản ứng có hại đã từng được ghi nhận với metronidazole và tinidazole, các kháng sinh thuộc nhóm nitroimidazole. Nếu bệnh nhân có tiền căn bị dị ứng qua trung gian IgE với nhóm nitroimidazole thì có thể được xem xét bổ sung điều trị kiểm soát bằng giải mẫn cảm metronidazole. Tốt nhất trong các trường hợp này là cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa Dị ứng – miễn dịch để cùng phối hợp điều trị cho bệnh nhân.
Nhiễm trùng trichomonas là một trong những nguyên nhân gây viêm âm đạo ở phụ nữ Mang thai có thể gây ra các bất lợi cho thai kỳ, đặc biệt là vỡ ối sớm, Sinh non và sinh con nhẹ cân. Mặc dù việc điều trị bằng metronidazole cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mắc bệnh chu sinh, khả năng Sinh non ở những phụ nữ bị viêm âm đạo do trichomonas được điều trị bằng metronidazole có khuynh hướng cao hơn nhóm sản phụ bình thường. Tuy nhiên, vì những lợi ích đem lại nếu được điều trị, chế độ kháng sinh khuyến cáo ở phụ nữ mang thai vẫn là metronidazole 2 g uống trong một liều duy nhất. Hơn nữa, dù metronidazole đi qua nhau thai, cho đến nay vẫn không có bằng chứng về khả năng gây quái thai hoặc tác dụng phụ gây đột biến ở trẻ sơ sinh đã được tìm thấy trên các đối tượng này.
Đối với phụ nữ cho con bú, metronidazole được tiết ra trong sữa mẹ nhưng với liều thấp hơn so với liều dùng để điều trị nhiễm trùng ở trẻ. Mặc dù một số trường hợp được báo cáo không tìm thấy bằng chứng về tác dụng phụ ở trẻ sơ sinh tiếp xúc với metronidazole trong sữa mẹ, một số bác sĩ vẫn khuyên không nên cho con bú trong 12 đến 24 giờ sau khi đã điều trị cho mẹ bằng một liều metronidazole 2 g.
Đối với những phụ nữ viêm âm đạo do Trichomonas có đồng nhiễm HIV, thống kê có thấy tỷ lệ này lên đến 53%. Việc điều trị nhiễm trichomonas cũng sẽ làm giảm các triệu chứng và dấu hiệu nhiễm trùng trichomonas tại âm đạo cũng như có thể làm giảm lây truyền. Bên cạnh đó, tiến triển của quá trình suy giảm miễn dịch cũng sẽ chậm lại với liệu pháp điều trị trichomonas. Phác đồ khuyến cáo cho phụ nữ nhiễm HIV là metronidazole 500 mg uống hai lần mỗi ngày trong 7 ngày, cho thấy có hiệu quả hơn một liều duy nhất. Ngoài ra, các đối tượng này cũng nên kiểm tra lại trong vòng 3 tháng sau khi điều trị ban đầu và có thể xem xét tăng liều nếu có hiện tượng đề kháng kháng sinh.
Tóm lại, việc điều trị nhiễm trichomonas nhìn chung là khá đơn giản. Tuy nhiên, vì đây là tác nhân gây viêm âm đạo khá phổ biến cũng như đã ghi nhận được khả năng kháng thuốc, cần lưu ý tuân thủ điều trị cũng như các biện pháp phối hợp, theo dõi sau đó nhằm giúp cho việc tiêu diệt vi khuẩn đạt hiệu quả cao, đem trở lại những ngày hoàn toàn tự tin, thoải mái cho các chị em.