Triệu chứng
Nguy cơ mủ thận bao gồm suy giảm miễn dịch do thuốc (Steroid), bệnh (tiểu đường, bệnh AIDS) và tắc nghẽn đường tiểu (sỏi, bướu, hội chứng khúc nối, thận vùng chậu, thận móng ngựa).
Chẩn đoán
Triệu chứng có thể bao gồm đau sườn, đau bụng, sốt, lạnh run, đau lưng.
Điều trị
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Tổng quan
Mủ thận là bệnh gì?
Thận ứ mủ là tình trạng nhiễm khuẩn nặng toàn bộ thận khiến mủ tập trung ở bể thận, làm bể thận bị căng dãn, nhu mô thận bị viêm và bị phá huỷ (viêm mủ thận) và gây phản ứng viêm ở các mô xung quanh (viêm quanh thận). Tắc nghẽn đường tiểu khi có hiện diện Viêm đài bể thận có thể làm cho ứ đọng bạch cầu, vi trùng, và những chất cặn trong hệ thống tiết niệu, dần dần có thể gây nên ứ mủ thận.
Triệu chứng
Nguy cơ Mủ thận bao gồm Suy giảm miễn dịch do thuốc (Steroid), bệnh (tiểu đường, bệnh AIDS) và tắc nghẽn đường tiểu (sỏi, bướu, hội chứng khúc nối, thận vùng chậu, thận móng ngựa).
Chẩn đoán
Triệu chứng có thể bao gồm đau sườn, đau bụng, sốt, lạnh run, đau lưng.
Điều trị
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu và nước tiểu sẽ được yêu cầu.
Việc chẩn đoán được thực hiện với siêu âm hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT Scan) cung cấp hình ảnh của thận.
Nguyên nhân
Tắc nghẽn đường tiểu khi hiện diện viêm đài bể thận có thể làm cho ứ đọng bạch cầu, vi trùng và những chất cặn trong hệ thống tiết niệu, dần dần có thể gây nên ứ mủ thận. Trong tình huống này, mủ trong một khối căng, bệnh nhân nhanh chóng thay đổi toàn trạng và trở nên nhiễm trùng. Vì thế nhận biết sớm tình trạng này và điều trị tình trạng nhiễm trùng cấp của thận, đặc biệt ở những bệnh nhân có tắc nghẽn, là một vấn đề quan trọng.
Giống như áp-xe, mủ thận thường khiến bệnh nhân có sốt, lạnh run, đau lưng, mặc dù vài bệnh nhân sẽ không có triệu chứng. Mủ thận có thể do vi trùng từ nhiều nguồn khác nhau, như từ đường tiểu dưới ngược dòng lên hay từ đường máu.
Nguy cơ mủ thận bao gồm suy giảm miễn dịch do thuốc (Steroid), bệnh (tiểu đường, bệnh AIDS) và tắc nghẽn đường tiểu (sỏi, bướu, hội chứng khúc nối, thận vùng chậu, thận móng ngựa).
Phòng ngừa
Nhiễm trùng đường tiết niệu trên và tắc nghẽn là nguyên nhân của mủ thận, có thể gây áp-xe quanh thận.
Những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch hay có tiền căn sử dụng kháng sinh kéo dài có thể dễ bị nhiễm nấm. Những cầu nấm phát triển sẽ gây tắc nghẽn và bệnh nhân sẽ bị mủ thận. Viêm đài bể thận là tình trạng lâm sàng vừa có sỏi thận vừa có nhiễm trùng.
Trong một vài trường hợp, bướu niệu mạc cũng có thể gây tắc nghẽn và gây mủ thận.
Nhiễm trùng
Như báo cáo trong y văn, có rất nhiều vi trùng gây mủ thận:
Escherichia coli
Các loài Enterococcus
Các loài Candida và những loại nấm khác
Các loài Enterobacter
Các loài Klebsiella
Các loài Proteus
Các loài Pseudomonas
Các loài Bacteroides
Các loài Staphylococcus
Staphylococcus aureus kháng Methicillin (MRSA)
Các loài Salmonella
Lao (gây nhiễm trùng và hẹp)
Tắc nghẽn
Nguyên nhân của tắc nghẽn có thể do những yếu tố sau:
Sỏi và sỏi san hô - chiếm 75%.
Do cầu nấm.
Do xơ hóa sau phúc mạc di căn, ví dụ bướu thận, bướu tinh hoàn, ung thư trực tràng.
Tắc nghẽn do ung thư tế bào chuyển tiếp của niệu mạc.
Ung thư biểu mô tuyến tiết nhầy của bể thận.
Có thai.
Hẹp khúc nối bể thận - niệu quản.
Nang niệu quản tắc nghẽn.
Hẹp chỗ nối niệu quản bàng quang.
Ứ trệ mãn tính nước tiểu và thận ứ nước.
Hẹp niệu quản.
Hoại tử nhú thận.
Thận đôi có tắc nghẽn.
Niệu quản lạc chỗ với nang niệu quản.
Bàng quang thần kinh.
Khác, hiếm hơn, như thoát vị lỗ bịt gây nghẹt niệu quản.
Điều trị
Phát hiện điều trị sớm các bệnh thận - tiết niệu.