Tên gọi khác: Bệnh võng mạc trẻ đẻ non
Triệu chứng
Mắt trẻ phản xạ kém với ánh sáng. Cần cho trẻ khám sớm để phát hiện bệnh bởi bệnh được phát hiện càng sớm thì các biện pháp điều trị càng đạt hiệu quả cao.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ sử dụng những dụng cụ, máy móc chuyên dụng để khám đáy mắt cho trẻ như soi đáy mắt gián tiếp... để phát hiện bệnh ở những giai đoạn khác nhau và có biện pháp điều trị thích hợp.
Điều trị
Để điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non có 2 phương pháp với nguyên lý chung: làm bỏng vùng võng mạc vô mạch gây ra sẹo dính phòng ngừa bong võng mạc do tiến triển của bệnh và giảm khả năng sinh tân mạch võng mạc
Tổng quan
Retinopathy of prematurity hay Bệnh võng mạc trẻ đẻ non là bệnh gì?
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (tên tiếng Anh là Retinopathy of prematurity hay viết tắt là ROP) là một tình trạng bệnh lý của Mắt thường gặp ở những trẻ đẻ non, nhẹ cân (dưới 2.000g). Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời thì một tỷ lệ đáng kể có nguy cơ bị mù vĩnh viễn cả hai mắt.
Triệu chứng
Mắt trẻ phản xạ kém với ánh sáng. Cần cho trẻ khám sớm để phát hiện bệnh bởi bệnh được phát hiện càng sớm thì các biện pháp điều trị càng đạt hiệu quả cao.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ sử dụng những dụng cụ, máy móc chuyên dụng để khám đáy mắt cho trẻ như soi đáy mắt gián tiếp... để phát hiện bệnh ở những giai đoạn khác nhau và có biện pháp điều trị thích hợp.
Điều trị
Để điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non có 2 phương pháp với nguyên lý chung: làm Bỏng vùng võng mạc vô mạch gây ra Sẹo dính phòng ngừa Bong võng mạc do tiến triển của bệnh và giảm khả năng sinh tân mạch võng mạc. Sử dụng phương pháp nào là do bác sỹ chỉ định, phụ thuộc vào tình trạng bệnh.
Nguyên nhân
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (tên tiếng anh là retinopathy of prematurity hay viết tắt là ROP) là một tình trạng bệnh lý của mắt thường gặp ở những trẻ đẻ non, nhẹ cân (dưới 2.000g). Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời thì một tỷ lệ đáng kể có nguy cơ bị mù vĩnh viễn cả hai mắt.
Trong quá trình phát triển của thai nhi, mạch máu ở võng mạc (võng mạc là màng mỏng lót mặt trong thành nhãn cầu, có vai trò giúp con người nhìn thấy được hình ảnh sự việc) xuất phát từ phần trung tâm phía sau võng mạc, rồi phát triển dần về phía trước và kết thúc vào lúc thai nhi được đủ tháng. Ở trẻ đẻ non, quá trình này chưa hoàn thành. Sau khi trẻ được sinh ra, nếu các mạch máu tiếp tục quá trình phát triển bình thường thì trẻ không mắc bệnh, nếu các mạch máu phát triển một cách bất thường thì trẻ sẽ mắc bệnh.
Phân loại
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non được phân loại khác nhau tuỳ theo từng mức độ nặng nhẹ của bệnh, từ độ 1 đến độ 5, trong đó độ 5 là mức độ nặng nhất. Mức độ nặng nhẹ của bệnh võng mạc trẻ đẻ non được đánh giá dựa trên sự tương quan giữa vùng võng mạc có mạch máu mọc bình thường so với vùng có phát triển mạch máu bất thường.
Những giai đoạn tiến triển của bệnh võng mạc trẻ đẻ non
- Giai đoạn 1: Có một ranh giới mỏng ngăn cách giữa khu vực đã hình thành các mạch máu và khu vực mà các mạch máu chưa phát triển. Ở giai đoạn này, những mạch máu vẫn có thể tự phát triển bình thường nhưng tiến triển của bệnh cần được tiếp tục theo dõi.
- Giai đoạn 2: Ranh giới giữa hai khu vực (có và không có mạch máu) rộng ra và dày lên thành một cái gờ. Giai đoạn này bệnh vẫn có thể tự lành, nhưng cũng có thể bệnh sẽ tiến triển sang giai đoạn 3.
- Giai đoạn 3: Những tân mạch bắt đầu phát triển dọc theo cái gờ và lan vào khối chất lỏng vốn trong suốt ở phần sau của mắt gọi là pha lê thể. Những mạch máu này có thể chảy máu (xuất huyết) và hình thành nên các sẹo.
- Giai đoạn 4A: Các mạch máu bất thường và mô sẹo sẽ làm co kéo võng mạc, dẫn đến bong võng mạc khu trú. Ở giai đoạn này, vùng hoàng điểm, nơi chịu trách nhiệm cho thị lực trung tâm chưa bị ảnh hưởng.
- Giai đoạn 4B: Võng mạc vẫn chỉ tổn thương ở mức độ bong khu trú, nhưng hoàng điểm đã bị ảnh hưởng làm suy giảm cả thị lực trung tâm lẫn chu biên ở mức độ nào đó.
- Giai đoạn 5: Bong võng mạc hoàn toàn, làm giảm thị lực trầm trọng.
Phòng ngừa
Ở nhiều trẻ sinh thiếu tháng, mạch máu võng mạc phát triển bất thường, gây suy giảm thị lực. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây mù cho trẻ dưới 6 tuổi. Việc phát hiện sớm và điều trị thích hợp có thể cải thiện tiên lượng bệnh.
Điều trị
Cách phòng tốt nhất là quản lý thai nghén tốt để hạn chế bị đẻ non. Nếu đã bị đẻ non, trẻ sơ sinh có cân nặng thấp thì cần phải tuân thủ chế độ khám mắt cho bé. Không chủ quan khi thấy mắt bé bề ngoài có vẻ bình thường. Bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non nếu không được khám, phát hiện bệnh và điều trị kịp thời thì một tỷ lệ đáng kể sẽ bị mù. Đây là bệnh gây mù nguy hiểm vì bệnh thường xảy ra ở cả hai mắt và khi đã bị mù thì rất khó có khả năng chữa trị sáng lại và suốt cuộc đời của trẻ sẽ chìm trong bóng tối. Trẻ trở thành người tàn phế và là gánh nặng cho gia đình và cả xã hội.
Khi nào trẻ cần được khám mắt để phát hiện bệnh?
Với những trẻ có nguy cơ cao bị bệnh, lần khám mắt đầu tiên cần được thực hiện khi trẻ được 3-4 tuần sau đẻ, ngay khi trẻ còn nằm điều trị trong khoa sơ sinh và cả khi trẻ đã được về nhà.
Cần phải khám cho trẻ bao nhiêu lần và khám đến bao giờ?
Thông thường, nếu lần khám đầu tiên mà chưa thấy bệnh, hoặc bệnh còn nhẹ thì trẻ sẽ được hẹn khám lại 2 tuần/lần cho tới khi cháu bé được 40 - 42 tuần tuổi (tính từ ngày thụ thai) hoặc tới khi các mạch máu ở võng mạc phát triển một cách đầy đủ.
Nếu khi khám mà thấy bệnh đã ở vào giai đoạn nặng hơn thì trẻ có thể sẽ phải được khám lại sau 1 tuần, thậm chí sau 2-3 ngày, có khi cần phải điều trị ngay.