1. Tổng quan về bệnh lồng ruột cấp ở trẻ em
Lồng ruột cấp ở trẻ là một cấp cứu bụng ngoại khoa thường gặp, xảy ra khi một đoạn ruột của trẻ lộn lại và chui vào lòng của đoạn ruột kế cận gây ra tình trạng tắc ruột cơ học. Có nhiều kiểu Lồng ruột nhưng thường gặp nhất là lồng hồi-manh tràng.
Trẻ bị lồng ruột có thể ở bất kỳ độ tuổi nào nhưng thường gặp nhất là ở trẻ em dưới 2 tuổi, nhiều nhất ở những trẻ từ 4 đến 9 tháng. Bệnh hay gặp ở những trẻ bụ bẫm, béo tốt, ít gặp ở những trẻ bị suy dinh dưỡng. Tỷ lệ lồng ruột gặp ở bé trai nhiều hơn bé gái từ 2 đến 4 lần. Tần suất lồng ruột cấp ở trẻ em Việt Nam là 3 ca trên 1000 trẻ dưới một tuổi/năm.
Trẻ bị lồng ruột thường không rõ nguyên nhân. Có thể do sự mất cân đối giữa kích thước của hồi tràng so với van hồi manh tràng, do Viêm hạch của mạc treo, một số trường hợp lồng ruột cấp tính có khởi điểm là Túi thừa Meckel, polyp, u ruột non, búi giun,...
Về tiên lượng, diễn biến bệnh lồng ruột rất khác nhau ở hai lứa tuổi. Trong đó, với trẻ đang bú bị lồng ruột (dưới 24 tháng tuổi) bệnh sẽ diễn biến nhanh, cấp tính, nặng theo từng giờ. Với trẻ lớn hơn, biểu hiện bệnh bán cấp hoặc mãn tính, diễn biến không nặng như ở trẻ còn bú.
Các biểu hiện khi trẻ bị lồng ruột cha mẹ cần lưu ý là:
- Đau bụng: Khi những cơn đau bụng xuất hiện, trẻ khóc thét đột ngột, dữ dội, xoắn vặn, cơn đau làm trẻ ngừng chơi, bỏ bú.
- Nôn: xuất hiện ngay từ cơn đau đầu tiên, lúc đầu trẻ nôn ra thức ăn, sau đó có thể nôn ra dịch xanh hoặc vàng.
- Đại tiện ra máu: có thể xuất hiện sớm ngay sau cơn đau hoặc xuất hiện muộn sau 24 giờ. Trẻ đang bú bị lồng ruột 95% có triệu chứng đại tiện ra máu.
Nếu đưa đến viện muộn, trẻ có thể bị Hoại tử ruột, thủng ruột gây viêm phúc mạc, nhiễm trùng, nhiễm độc. Lúc này trẻ sẽ có da tái xanh, mệt lã, Sốt cao, tiểu ít, lờ đờ, hôn mê.
2. Điều trị lồng ruột ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
2.1. Nguyên tắc điều trị lồng ruột ở trẻ
Nguyên tắc điều trị lồng ruột là tiến hành hồi sức cho trẻ, thực hiện tháo lồng ruột càng sớm càng tốt và điều trị nguyên nhân gây lồng ruột nếu có.
Về hồi sức nội khoa, trẻ sẽ được đặt ống thông dạ dày dẫn lưu, nhịn ăn uống. Bổ sung nước, điện giải nếu có rối loạn. Sử dụng kháng sinh Ceftriaxon hoặc Cefotaxim, có thể phối hợp với Metronidazol.
Về tháo lồng, có hai phương pháp đó là tháo lồng bằng hơi và tháo lồng bằng phẫu thuật.
2.2. Các phương pháp tháo lồng điều trị lồng ruột ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
2.2.1. Phương pháp tháo lồng bằng hơi
Bơm hơi là phương pháp tháo lồng hiệu quả khi trẻ chưa có các biến chứng như thủng ruột, Hoại tử ruột, tắc ruột,...Trẻ được đặt thông dạ dày và thông trực tràng, sau đó đó gây mê. Hơi được bơm bằng máy vào ống thông trực tràng để đẩy khối lồng thoát ra, quá trình được thực hiện dưới sự quan sát của màn hình X-quang. Áp lực bơm hơi chuẩn 60-120mmHg (bắt đầu bằng áp lực 60-8mmHg sau đó tăng dần). Mỗi lần bơm hơi không kéo dài quá 3 phút và không tháo quá 3 lần. Đây là một thủ thuật đơn giản nhưng tỷ lệ thành công cao (trên 90%). Dấu hiệu khi tháo lồng thành công là: bụng tròn đều, không sờ thấy khối lồng, cột áp lực trên máy tụt đột ngột, các triệu chứng tắc ruột cải thiện. Sau khi tháo lồng thành công, trẻ có thể ăn uống lại sau 2 giờ. Trẻ sẽ được giữ lại viện vài giờ để theo dõi các triệu chứng như đau bụng, nôn, sốt, đại tiện,... nhằm phát hiện lồng ruột tái phát hoặc biến chứng sau tháo lồng. Trẻ thường được xuất viện trong ngày.
2.2.2. Phương pháp tháo lồng bằng phẫu thuật
Điều trị lồng ruột bằng phẫu thuật được chỉ định khi tháo lồng bằng hơi thất bại hoặc trẻ đã có các biến chứng. Phẫu thuật còn giúp xử lý các nguyên nhân thực thể gây lồng ruột cấp như Túi thừa Meckel, polyp, u ruột non,...
Có hai phương pháp phẫu thuật đó là mổ nội soi và mổ hở. Tùy theo từng trường hợp, bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp phù hợp với trẻ. Mổ Nội soi được chỉ định trong trường hợp lồng ruột cấp ở trẻ tháo lồng thất bại nhưng chưa có biến chứng hoặc lồng ruột mạn tính có nguyên nhân thực thể.
Đối với mổ hở, có hai đường tiếp cận:
- Nếu vị trí khối lồng ở đại tràng phải, bác sĩ sẽ thực hiện đường mổ ngang trên rốn bên phải.
- Nếu vị trí lồng ở đại tràng trái hoặc chưa xác định, bác sĩ sẽ thực hiện mổ ở đường trắng giữa.
Về việc xử lý khối lồng khi phẫu thuật, nếu khối lồng chưa bị hoại tử, bác sĩ sẽ tháo lồng. Tùy vào tình trạng thương tổn của ruột tháo mà bác sĩ sẽ cắt nối ruột hay chỉ đắp ấm, đồng thời tìm và xử lý nguyên nhân làm trẻ bị lồng ruột. Nếu khối lồng đã bị hoại tử, tiến hành cắt nối ruột lấy cả khối lồng.
Tùy theo những can thiệp thực hiện khi phẫu thuật, có thể trẻ phải tạm nhịn ăn trong 24-48 giờ. Trẻ sẽ tiếp tục được bù nước, điện giải, thuốc giảm đau và kháng sinh. Thông dạ dày được rút khi bắt đầu có nhu động ruột, trẻ sẽ được xem xét cho ăn trở lại. Trẻ thường được xuất viện sau 3-7 ngày.
3. Các biến chứng thường gặp sau khi điều trị lồng ruột và tiên lượng
Các biến chứng có thể gặp khi điều trị tháo lồng bằng bơm hơi là viêm ruột, thủng ruột,... Các biến chứng sau phẫu thuật là viêm ruột, xì miệng nối, hoại tử ruột, sốc nhiễm trùng, rối loạn nước điện giải,...
Về tiên lượng, tỷ lệ tái phát lồng ruột ruột cấp ở trẻ em sau khi tháo lồng bằng hơi là 10-15%, tái phát có thể xuất hiện sau vài giờ hoặc sau vài năm. Sau điều trị bằng phẫu thuật cũng có nguy cơ tái phát nhưng tỷ lệ thấp hơn.
Hiện nay nguyên nhân gây lồng ruột ở trẻ vẫn chưa được tìm ra nên không có biện pháp dự phòng đặc hiệu. Cách tốt nhất là phụ huynh nhận biết các dấu hiệu bất thường ở trẻ để phát hiện sớm lồng ruột, tránh các biến chứng nguy hiểm do bệnh gây ra. Theo đó, khi thấy trẻ có dấu hiệu đau bụng từng cơn, biểu hiện bằng cơn khóc thét đột ngột, dữ dội, trẻ ưỡn người, bỏ bú, xoắn vặn, ngừng chơi,... thì cha mẹ cần ngay lập tức đưa trẻ đi khám. Các bác sĩ sẽ thăm khám, chẩn đoán cận lâm sàng để chẩn đoán xác định và có biện pháp can thiệp kịp thời cho trẻ.