1. Hóa trị điều trị ung thư
Hóa trị là phương pháp điều trị ung thư bằng các thuốc gây độc tế bào tác động vào quá trình phát triển và phân chia của các tế bào ung thư nhằm tiêu diệt các tế bào ác tính này. Tuy nhiên, không chỉ có các tế bào ung thư mà cả những tế bào lành của cơ thể cũng bị ảnh hưởng bởi cơ chế tác động của thuốc hóa trị.
Do đó, điều trị ung thư bằng thuốc hóa trị thường gây ra nhiều tác dụng phụ và đa phần các tác dụng phụ thường gặp là mệt mỏi buồn nôn, rung tóc, Suy gan thân, suy tủy xương... Hầu hết các tác dụng phụ này có thể dự phòng, xử lý và giảm thiểu được. Tuy nhiên cũng có 1 số trường hợp có tác dụng phụ nghiêm trọng như viêm phổi, suy tim, Suy gan thận nặng...có thể ảnh hưởng đến liểu, thời gian điều trị, số ít có thể tử vong. Đồng thời việc giảm liều hóa chất hoặc trì hoãn điều trị dẫn đến hóa trị không đạt được hiệu quả cao nhất. Theo dõi sát, dự phòng và xử lý kịp thời các tác dụng phụ là biện pháp điều trị hiệu quả nhất.
2. Hiểu về liệu pháp nhắm trúng đích trong điều trị ung thư
2.1. Liệu pháp nhắm trúng đích là gì?
Sự khác biệt giữa các tế bào thường và tế bào ung thư là yếu tố quan trọng giúp y học tìm ra phương pháp điều trị mới- liệu pháp nhắm trúng đích có thể nhắm chính xác vào các đích tác động đến sự sinh trưởng và phát triển của khối u ác tính. Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của tế bào ung thư là sự xuất hiện của đột biến của các gen chịu trách nhiệm tăng trưởng tế bào (gọi là oncogenes). Các oncogenes và những protein tạo ra bởi các oncogenes này chính là mục tiêu tấn công của liệu pháp nhắm trúng đích. Ví dụ, các protein đột biến xuất hiện và phát tín hiệu liên tục để kích thích tế bào phân chia không kiểm soát, gây ra ung thư. Các loại thuốc nhắm trúng đích chỉ ngăn chặn hoạt động của những protein đột biến này và hầu như không tác động đến các protein bình thường. Cơ chế tác dụng này chỉ ảnh hưởng chuyên biệt đến các tế bào ung thư và không can thiệp đến các tế bào lành.
Tính đặc hiệu của liệu pháp nhắm trúng đích trong điều trị ung thư được xem là điểm khác biệt vượt trội so với hóa trị liệu, tuy nhiên cũng có mặt hạn chế. Cơ chế tác động chọn lọc để ngăn chặn sự sinh trưởng và phát triển của các tế bào ung thư có thể đủ để làm chậm diễn tiến của bệnh, song lại không đủ để tiêu diệt các phần tử ác tính. Do đó, nhiều loại thuốc nhắm trúng đích cần phải phối hợp cùng với hóa trị, Xạ trị truyền thống làm tăng hiệu quả điều trị, đẩy lùi bệnh ung thư.
2.2. Một số ví dụ về liệu pháp nhắm trúng đích
- Ung thư vú: Khoảng 20 - 25% các ca ung thư vú có bộc lộ quá mức thụ thể HER2. Đây là 1 yếu tố tiên lượng xấu của bệnh. Tuy nhiên sự ra đời của liệu pháp điều trị kháng Her2 kết hợp với hóa trị làm tăng thời gian sống thêm toàn bộ cũng như sống thêm không bệnh cho người bệnh.
- Ung thư đại tràng: EGFR, VGEF là các yếu tố dẫn đến sự tăng trưởng, tăng sinh mạch máu trong ung thư đại tràng và khiến ung thư phát triển và lan tràn. Các thuốc nhắm trúng đích EGFR, VGEF có thể ngăn chặn tăng trưởng và phát triển của ung thư từ đó làm chậm sự phát triển của bệnh.
- Ung thư phổi: Các thuốc điều trị đích phân tử nhỏ (TKI) có hiệu quả với ung thư phổi có đột biến gen EGFR, ALK, ROS, MET, RET dương tính.
- Ung thư hắc tố: Khoảng một nửa những trường hợp ung thư sắc tố da có đột biến trên gen BRAF. Hiện nay đã có một vài loại thuốc có tác động ức chế đặc hiệu trên BRAF (Vemurafenib, Dabrafenib). Tuy nhiên, những loại thuốc này có thể gây nguy hiểm nếu bệnh nhân ung thư sắc tố da không mang đột biến BRAF.
Ngoài ra, liệu pháp nhắm trúng đích còn áp dụng cho nhiều loại ung thư khác.
3. Lựa chọn phương pháp chữa trị phù hợp với bệnh nhân
Không phải tất cả các Khối u ác tính đều có cùng mục tiêu tác động. Do đó, liệu pháp điều trị ung thư nhắm vào một mục tiêu cố định sẽ không mang lại hiệu quả cho mọi trường hợp. Ví dụ bệnh nhân Ung thư đại trực tràng di căn có gen RAS tự nhiên thì được hưởng lợi từ các thuốc nhắm trúng đích kháng thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô EGFR như Cetuximab (Erbitux) và Panitumumab (Vectibix). Các phương pháp điều trị kháng thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô liên kết các protein EGFR trên bề mặt các tế bào ung thư.
Trong trường hợp RAS tự nhiên sự tương tác này sẽ khóa các tín hiệu cho quá trình phát triển và phân chia tế bào từ đó ngăn chặn tế bào ung thư phát triển. Nhưng khi RAS đột biến các tín hiệu EGFR luôn ở chế độ mở và các liệu pháp kháng EGFR không thể tắt được tín hiệu đó, do đó các tế bào ung thư tiếp tục nhận được tín hiệu để tăng sinh và phát triển. Như vậy với những bệnh nhân có RAS đột biến, các thuốc kháng EGFR không có hiệu quả, người bệnh có thể sử dụng liệu pháp kháng yếu tố phát triển nội mô mạch máu VGEF như Bevacizumab (Avastin), Phương pháp này nhằm ngăn ngừa sự hình thành các mạch máu mới đến nuôi khối u, làm giảm sự cung cấp máu đến khối u. Tóm lại việc kiểm tra tình trạng của gen RAS sẽ giúp các bác sĩ xác định liệu pháp nào và cơ chế nào là phù hợp cho bệnh nhân.
Xác định đúng phương pháp điều trị giúp người bệnh tránh khỏi những tác dụng phụ không cần thiết, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả điều trị. Thông thường bệnh nhân ung thư trước khi điều trị cần được thực hiện một số kiểm tra về gen, protein và những nhân tố khác liên quan đến khối u để bác sĩ có thể lựa chọn được liệu pháp hiệu quả nhất.
Bài viết tham khảo nguồn: Cancer.net; Cancercouncil.com.au