1. Bệnh Bạch hầu là gì?
Khác với các vi khuẩn thông thường khác, vi khuẩn bạch hầu gây ra Tình trạng viêm họng, sốt, nóng và nguy hiểm do độc tố của vi khuẩn.
Bạch hầu là một bệnh Truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây ra. Bất cứ đối tượng nào cũng có thể bị bệnh bạch cầu nếu tiếp xúc với mầm bệnh.
Bệnh lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp hoặc gián tiếp, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da...
Trẻ từ 1 -10 tuổi chính là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao do kháng thể từ người mẹ truyền sang không còn, khả năng miễn dịch thấp sẽ dễ mắc bệnh hơn.
Chỉ cần có nguồn bệnh, bệnh bạch hầu sẽ lây nhiễm. Bệnh không bùng phát theo mùa rõ rệt. Vi khuẩn sẽ phát tán ra chung quanh theo đường không khí khi người bệnh ho, hắt hơi hoặc tiếp xúc qua da khi bị Trầy xước dẫn đến lây lan vi khuẩn bạch hầu.
2. Bệnh bạch hầu nguy hiểm như thế nào?
Bạch hầu là căn bệnh nguy hiểm bởi đây là bệnh Nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Ngoài ra, bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra có thể dẫn đến các tổn thương nghiêm trọng.
Bệnh bạch hầu rất dễ lây lan và tốc độ lây lan khá nhanh thông qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc gián tiếp với đồ chơi, vật dụng có dịch chất dịch bài tiết của người mắc bệnh.
Bệnh có thể gây ra những tổn thương vô cùng nghiêm trọng cho thận, hệ Thần kinh trung ương và tim nếu không được điều trị. Trong tổng số ca mắc bệnh bạch hầu, tỷ lệ tử vong chiếm khoảng 3%.
Trẻ thường có biểu hiện Sốt nhẹ, mệt mỏi nổi hạch ở cổ sau thời gian ủ bệnh khoảng từ 2-5 ngày. Bệnh nhân có thể bị nhầm lẫn với các chứng đau họng khác ở giai đoạn sớm của bệnh khi chưa có giảm mạc ở mũi họng. Điều này dễ dẫn đến những biến chứng khó lường do độc tố của vi khuẩn gây ra.
Biến chứng bệnh bạch hầu thường gặp nhất là Viêm cơ tim và viêm dây thần kinh. Trẻ có thể khó nuốt, khó thở, nhiều trẻ biểu hiện nặng với da xanh, nhịp tim rối loạn, liệt thần kinh khi bệnh tiến triển.
Trong giai đoạn toàn phát của bệnh, biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra hoặc cũng có thể xảy ra chậm vài tuần sau khi bệnh đã khỏi. Nếu Viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tiên lượng thường xấu, tỷ lệ tử vong rất cao.
Dây thần kinh vận động sẽ bị ảnh hưởng nếu xảy ra biến chứng viêm dây thần kinh. Tình trạng này thường hồi phục hoàn toàn nếu người bệnh không tử vong vì biến chứng khác. Vào tuần thứ ba của bệnh, liệt màn khẩu cái thường xuất hiện. Vào tuần thứ năm của bệnh, liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi và liệt cơ hoành có thể xảy ra. Liệt cơ hoành có thể gây ra viêm phổi và suy hô hấp.
Trong vòng từ 6 đến 10 ngày, tình trạng tắc nghẽn đường hô hấp và gây tử vong.
3. Phòng ngừa bệnh bạch hầu
Cách phòng bệnh bạch hầu hiệu quả nhất hiện nay chính là vắc-xin phòng bệnh bạch hầu .
Với bệnh nhân mắc bạch hầu thì sau khi phát hiện bệnh, người bệnh sẽ được chích ngừa kháng độc tố bạch hầu nhằm ngăn ngừa các triệu chứng độc tố của vi khuẩn. Sau đó, người bệnh sẽ được chỉ định sử dụng kháng sinh để điều trị.
Ra đời từ năm 1923 cho đến nay, vắc - xin bạch hầu giải độc tố bạch hầu đã thay đổi tính nghiêm trọng của bệnh dịch trên toàn thế giới.
Tiêm vắc - xin phòng bệnh chính là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất để làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong do bệnh truyền nhiễm (trong đó có bệnh bạch hầu) gây ra cho nhân loại. 85% - 95% người được tiêm chủng sẽ được sinh ra miễn dịch đặc hiệu bảo vệ cơ thể không bị mắc bệnh. Những đối tượng được tiêm vắc - xin phòng bệnh sẽ không bị mắc bệnh và đương nhiên sẽ không bị tử vong do di chứng của bệnh dịch gây ra. Khoảng 2,5 triệu trẻ em trên thế giới không bị tử vong do bệnh truyền nhiễm nhờ có vắc -xin.
Vắc xin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về giảm tỷ lệ tử vong cho trẻ dưới 5 tuổi trên toàn thế giới.