Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

Các dạng tổn thương tiền ung thư cổ tử cung

23/11/2021
Các dạng tổn thương tiền ung thư cổ tử cung

Tổn thương tiền ung thư cổ tử cung là các biến đổi bất thường ở cổ tử cung. Những tổn thương này sau một thời gian sẽ có nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung. Vậy tổn thương tiền ung thư cổ tử cung có những dạng nào?

1. Tổn thương tiền ung thư cổ tử cung là gì?

Tổn thương tiền Ung thư cổ tử cung là những thay đổi khiến tế bào cổ tử cung trông không còn như bình thường mà có xu hướng tiến triển thành ung thư, nhưng những tổn thương này chưa phải là ung thư, chỉ khi không được can thiệp thích hợp thì chúng mới có nguy cơ phát triển thành ung thư thực sự.

Thời gian để những tổn thương tiền ung thư cổ tử cung diễn tiến thành ung thư cổ tử cung thường lên tới 10 năm (hoặc nhiều hơn nữa), nhưng trong một số trường hợp hiếm gặp thời gian này có thể ngắn hơn.

Khu vực xảy ra những tổn thương tiền ung thư được gọi là khu vực biến đổi. Khu vực này là nơi những tế bào biểu mô trụ dần chuyển sang thành tế bào biểu mô vảy. Quá trình biến đổi của tế bào biểu mô trụ thành tế bào biểu mô vảy là một quá trình bình thường, nhưng nó làm cho các tế bào nhạy cảm hơn trước tác động của virus gây u nhú ở người (human papillomavirus - HPV).

Các dạng tổn thương tiền ung thư cổ tử cung - ảnh 1
Các dạng của tổn thương tiền ung thư cổ tử cung là gì?

2. Các dạng tổn thương của tiền ung thư cổ tử cung

Các dạng tổn thương của tiền ung thư cổ tử cung được miêu Tả dựa trên hình thái bất thường của các tế bào và mức độ nghiêm trọng của những bất thường này. Những biến đổi tiền ung thư ở cổ tử cung là khá thường gặp.

Phân loại tổn thương trên Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung (xét nghiệm Pap)

Các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung trên Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung (xét nghiệm Pap) được mô Tả theo hệ thống Bethesda, bao gồm các thay đổi liên quan tới tổn thương tế bào biểu mô vảy (squamous intraepithelial lesion - SIL) và bất thường tế bào tuyến, là tế bào tuyến không điển hình (atypical glandular cells - AGC).

  • Tổn thương tế bào biểu mô vảy mức độ thấp (low - grade squamous intraepithelial lesion - LSIL): chỉ có những tế bào biểu mô bề mặt (hoặc các tế bào lân cận) của cổ tử cung bị biến đổi.
  • Tổn thương tế bào biểu mô vảy mức độ cao (high - grade squamous intraepithelial lesion - HSIL): các tế bào biểu mô cổ tử cung ở lớp sâu hơn cũng bị thay đổi.
  • Tế bào tuyến không điển hình (atypical glandular cells - AGC): là sự biến đổi xảy ra đối với tế bào tuyến ở cổ tử cung. Những thay đổi này có mối liên quan với nguy cơ cao hơn tiến triển thành ung thư.
Phân loại tổn thương dựa trên giải phẫu bệnh

Tổn thương tiền ung thư cổ tử cung trên Giải phẫu bệnh được gọi tên dưới thuật ngữ tân sinh biểu mô cổ tử cung (cervical intraepithelial neoplasia - CIN), và phân độ sẽ dựa vào phạm vi các tế bào loạn sản được nhìn thấy ở mẫu mô biểu mô cổ tử cung:

  • CIN 1: khi loạn sản chỉ xuất hiện ở 1⁄3 dưới của lớp biểu mô của cổ tử cung; trường hợp này được nhận định là loạn sản mức độ nhẹ.
  • CIN 2: khi loạn sản xuất hiện ở 2⁄3 dưới của lớp biểu mô của cổ tử cung; trường hợp này được nhận định là loạn sản mức độ trung bình.
  • CIN 3: khi loạn sản chiếm trên 2⁄3 độ dày của lớp biểu mô của cổ tử cung (thậm chí là toàn bộ lớp biểu mô cổ tử cung); trường hợp này là loạn sản mức độ nặng.
So sánh tương đương giữa hai hệ thống phân loại

Giữa hai hệ thống phân loại thì tổn thương tế bào biểu mô vảy mức độ thấp tương đương với CIN 1, còn tổn thương tế bào biểu mô vảy mức độ cao tương đương với CIN 2 và CIN 3.

3. Các yếu tố nguy cơ của tổn thương tiền ung thư cổ tử cung

Nhiễm virus gây u nhú ở người là yếu tố nguy cơ chính xảy ra tổn thương tiền ung thư cổ tử cung. Hút thuốc lá và suy yếu hệ miễn dịch là những điều kiện thuận lợi làm tăng nguy cơ phát triển những tổn thương tiền ung thư cổ tử cung (bởi cơ thể không đào thải được virus gây u nhú ở người, và sẽ mang virus mạn tính).

4. Chẩn đoán tổn thương tiền ung thư cổ tử cung

Các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung thường không có bất kỳ dấu hiệu hay triệu chứng nào. Tổn thương tiền ung thư cổ tử cung đa phần được phát hiện sau khi kết quả xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung (xét nghiệm Pap) cho thấy bất thường (và do đó thực hiện định kỳ xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung là rất quan trọng).

Nếu kết quả xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung là bất thường, bác sĩ có thể chỉ định thêm các xét nghiệm khác để xác định tình trạng, như:

  • Thực hiện lại xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung sau vài tháng (thường là sau 6 tháng) nếu kết quả lần xét nghiệm đầu cho thấy các tế bào chỉ biến đổi nhẹ.
  • Xét nghiệm virus gây u nhú ở người (đôi khi xét nghiệm này được thực hiện cùng lúc khi làm xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung).
  • Soi cổ tử cung và lấy mẫu mô tại khu vực nghi ngờ tổn thương làm giải phẫu bệnh.
  • Nạo kênh cổ tử cung (endocervical curettage - ECC): kỹ thuật này sử dụng thìa nạo (curette) để nạo niêm mạc của kênh cổ tử cung (là khu vực không thể nhìn thấy từ bên ngoài cổ tử cung), và thường được thực hiện trong quá trình soi cổ tử cung.
Các dạng tổn thương tiền ung thư cổ tử cung - ảnh 2
Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung

5. Điều trị tổn thương tiền ung thư cổ tử cung

Các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung mức độ nhẹ có thể tự biến mất mà không cần điều trị, do đó bác sĩ có thể chỉ định theo dõi định kỳ mà chưa can thiệp ngay.

Các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung mức độ trung bình và mức độ nặng có nguy cơ tiến triển thành ung thư cổ tử cung, do đó nên được điều trị càng sớm càng tốt. Các phương pháp điều trị có thể sử dụng bao gồm:

  • Khoét chóp cổ tử cung bằng vòng điện (loop electrosurgical excision procedure - LEEP), hoặc các phương pháp khoét chóp khác.
  • Phẫu thuật lạnh (cryosurgery).
  • Phẫu thuật bằng laser.
  • Phẫu thuật cắt bỏ tử cung.

Nếu được phát hiện sớm và can thiệp điều trị thích hợp, tiên lượng đối với các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung là rất tốt.

Bài viết tham khảo nguồn: cancer.ca