Mục lục:

Lựa chọn điều trị ung thư vú giai đoạn III

Ung thư vú giai đoạn 3 là giai đoạn bệnh đặc biệt nghiêm trọng khi tế bào ung thư đã lây lan đến 4 hạch bạch huyết. Vì vậy, người bệnh cần xây dựng giải pháp điều trị nhằm hạn chế tế bào ung thư di căn sang bộ phận khác của cơ thể.
Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

1. Ung thư vú giai đoạn 3

Ở giai đoạn 3, ung thư đã lan ra ngoài vú và vào các hạch bạch huyết gần đó. Thông thường, nhiều hạch bạch huyết có các tế bào ung thư hoặc khối u quá lớn có thể sẽ phát triển thành thành ngực hoặc da của vú.

Ung thư vú giai đoạn 3 được chia thành các nhánh nhỏ là IIIA, IIIB, và IIIC.

Giai đoạn IIIA: Tả ung thư vú xâm lấn trong đó:

  • Không có khối u được tìm thấy bên trong vú hoặc khối u có bất kỳ kích thước nào. Ở giai đoạn này, ung thư được tìm thấy trong 4 đến 9 hạch bạch huyết ở nách hoặc trong các hạch bạch huyết gần xương ức (khối u được tìm thấy trong các Xét nghiệm hình ảnh hoặc khám thực thể.
  • Khối u lớn hơn 5cm; các nhóm nhỏ tế bào ung thư vú (lớn hơn 0.2mm nhưng không lớn hơn 2cm) được tìm thấy trong các hạch bạch huyết.
  • Khối u lớn hơn 5cm; ung thư đã lan trong 1 và 3 hạch bạch huyết ở nách hoặc đến các hạch bạch huyết gần xương ức (tìm thấy trong sinh thiết hạch bạch huyết).

Tuy nhiên, nếu khối u ung thư có kích thước lớn hơn 5cm và ở mức độ 2, ung thư tìm thấy trong 4 đến 9 hạch bạch huyết ở nách, dương tính với thụ thể Estrogen và progesterone, dương tính với HER2 thì nó có thể sẽ được phân loại là giai đoạn IB.

Giai đoạn IIIB: Tả ung thư vú xâm lấn trong đó:
  • Khối u có thể có kích thước bất kỳ và lan đến thành ngực hoặc da của vú gây sưng hoặc loét.
  • Khối u có thể lan đến tối đa 9 hạch bạch huyết ở nách.
  • Khối u có thể lan đến các hạch bạch huyết gần xương ức.

Tuy nhiên, nếu khối u ung thư đo hơn 5cm và ở mức độ 3, ung thư được tìm thấy trong 4 đến 9 hạch bạch huyết ở nách, dương tính với thụ thể Estrogen và progesterone, dương tính với HER2 thì có thể sẽ được phân loại là giai đoạn IIA.

Ung thư vú được coi là ít nhất là ở giai đoạn IIIB. Các đặc điểm điển hình của ung thư vú viêm bao gồm: đỏ một lớp ở da vú, vú cảm thấy ấm và có thể bị sưng, các tế bào ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết và có thể tìm thấy trong da.

Giai đoạn IIIC: mô tả ung thư vú xâm lấn trong đó:

  • Không có dấu hiệu ung thư ở vú hoặc nếu có khối u, nó có thể có kích thước bất kỳ đồng thời có thể lan đến thành ngực hoặc da của vú
  • Ung thư đã lan đến 10 hạch bạch huyết ở nách trở lên.
  • Ung thư đã đến các hạch bạch huyết trên hoặc dưới xương đòn
  • Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết ở nách hoặc đến các hạch bạch huyết ở gần xương ức.

Tuy nhiên, nếu khối ung thư nói trên có kích thước đo được là bất kỳ và ở mức độ 2, dương tính với thụ thể estrogen và progesterone, dương tính hoặc âm tính với HER2 nó có thể sẽ được phân loại là ở giai đoạn IIIA.

2. Ung thư vú giai đoạn 3 có thể điều trị được không?

Ung thư vú giai đoạn 3C được chia thành ung thư vú giai đoạn 3C có thể phẫu thuật và không thể phẫu thuật. Tuy nhiên, thuật ngữ “không thể phẫu thuật” không giống với “không thể điều trị”. Nếu bác sĩ sử dụng từ "không thể phẫu thuật", điều đó có thể chỉ đơn giản là một cuộc phẫu thuật vào thời điểm này sẽ không đủ để loại bỏ tất cả ung thư vú. Một phương pháp điều trị khác có thể được sử dụng trước để thu nhỏ ung thư vú càng nhiều càng tốt trước khi xem xét phẫu thuật.

Với những liệu pháp hiện đại ngày nay, mặc dù với giai đoạn tiến triển cao nhất như giai đoạn 3C vẫn có thể được điều trị thành công với nhiều liệu pháp như liệu pháp hoá trị tân bổ trợ để giảm kích thước khối u, phẫu thuật, hoá Xạ trị kết hợp sau phẫu thuật. Bệnh nhân với ung thư vú giai đoạn 3 vẫn có cơ hội được điều trị khỏi và tiên lượng sống cải thiện đáng kể.

Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ, tỷ lệ sống sót của phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn 3 trong thời gian 5 năm là khoảng 72%. Điều này có nghĩa là 72 trong số 100 phụ nữ dự kiến ​​sẽ sống 5 năm sau khi chẩn đoán. Đối với nam giới bị ung thư vú giai đoạn 3, tỷ lệ sống sót sau 5 năm cao hơn một chút, ở mức 75%.

Để so sánh, tỷ lệ sống sót của phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn 0 hoặc giai đoạn 1 là gần như 100%. Đối với ung thư vú giai đoạn 2, tỷ lệ sống sót là khoảng 93% và đối với giai đoạn 4 là khoảng 22%. Đối với nam giới, những con số này là 100 phần trăm cho giai đoạn 0 và 1,87% cho giai đoạn 2 và 25% cho giai đoạn 4.

Tuy nhiên, tuổi thọ của một cá nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuổi tác, thể lực, phản ứng với điều trị, giới tính, kích thước của khối u và nhiều yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ của một người.

3. Lựa chọn điều trị ung thư vú giai đoạn 3 

Hoá trị: Hoá trị là phương pháp điều trị phổ biến cho ung thư vú giai đoạn 3. Đôi khi, ở một số bệnh nhân có thể sử dụng phương pháp điều trị này trước khi phẫu thuật để làm thu nhỏ khối u và làm cho nó được loại bỏ dễ dàng khi phẫu thuật. Nó còn có thể giúp tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại sau phẫu thuật. Trong trường hợp phẫu thuật không phải là lựa chọn điều trị bệnh, thì phương pháp hoá trị có thể là phương pháp điều trị chính.

Người bệnh có thể tiếp cận với phương pháp điều trị hoá trị bằng nhiều cách khác nhau chẳng hạn như uống thuốc hoặc chất lỏng có chứa chất hoá học để thực hiện quá trình điều trị. Tuy nhiên, thông thường bác sĩ chuyên khoa sẽ sử dụng thuốc bằng tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân. Tuỳ thuộc vào loại điều trị, phương pháp điều trị hoá trị có thể được xây dựng theo chu kỳ và cho phép cơ thể được nghỉ ngơi giữa các lần điều trị.

Phẫu thuật: Phương pháp phẫu thuật có thể áp dụng khi cắt bỏ khối u. Khi đó, bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ khối u và một số mô xung quanh ra khỏi vú. Hoặc người bệnh có thể cần phải phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú cũng như loại bỏ tất cả các hạch bạch huyết. Sau phẫu thuật cắt bỏ vú, người bệnh có thể lựa chọn phẫu thuật tái tạo vú.

Xạ trị: Thường được sử dụng điều trị cho phụ nữ mắc ung thư vú ở giai đoạn III sau phẫu thuật. Quá trình điều trị này có thể tiêu diệt các tế bào ung thư có thể đã bị bỏ sót.

Liệu pháp hormone: Liệu pháp hormon có thể giúp phụ nữ mắc bệnh ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Điều đó có nghĩa là ung thư cần hormone để phát triển. Ở những phụ nữ này, thuốc có thể ngăn khối u lấy hormone. Những loại thuốc được sử dụng trong phương pháp này bao gồm tamoxifen (cho tất cả phụ nữ) và thuốc ức chế aromatase Anastrozole (Arimidex), Exemestane (Aromasin) và letrozole (Femara) (cho phụ nữ sau mãn kinh). Fulvestrant (Faslodex) và toremifene (Fareston) thụ thể hormone và đôi khi được áp dụng cho phụ nữ bị ung thư vú di căn.

Phụ nữ chưa đến tuổi mãn kinh có thể cân nhắc việc phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng để ngăn nó không sản xuất hormone giúp ung thư phát triển. Hoặc có thể sử dụng thuốc để ngăn chặn buồng trứng giải phóng hormone.

Liệu pháp điều trị mục tiêu: Liệu pháp điều trị mục tiêu là phương pháp điều trị mới. Khoảng 20% phụ nữ bị ung thư vú có quá nhiều protein HER2 và nó làm cho ung thư lây lan nhanh chóng. Phụ nữ bị ung thư vú dương tính với HER2 có thể được kê đơn với các thuốc như: adotrastuzumab emtansine (Kadcyla), famtrastuzumab deruxtecannxki (Enhertu), lapatinib (Tykerb), neratinib (Nerlynx), pertuzum. Hoặc chất ức chế CDK 4/6 như: Abemaciclib (Verzenio), palbociclib (Ibrance) hoặc ribociclb (Kisqali) đôi khi được dùng ở phụ nữ sau mãn kinh với một số loại ung thư vú tiến triển. Những loại thuốc này có thể ngăn chặn protein HER2 không cho ung thư phát triển đồng thời có thể làm cho phương pháp điều trị hóa trị hiệu quả hơn.

Những người âm tính với HER2 nhưng bị ung thư vú đột biến BRCA có thể được điều trị bằng nhóm thuốc gọi là chất ức chế PARP nhắm đến loại protein giúp tế bào ung thư phát triển. Các chất ức chế PARP bao gồm: olaparib (Lynparza) và Talazoparib (Talzenna). Everolimus (Afinitor) là một liệu pháp nhắm mục tiêu đôi khi được áp dụng cho những phụ nữ bị ung thư vú âm tính HER2 cùng với liệu pháp hormone exemestane (Aromasin).

Những người ung thư vú âm tính với HER2 nhưng bị ung thư vú di căn hoặc di căn PIK3CA có thể được điều trị bằng thuốc ức chế PIK3 dạng mới, và alpelisib (Piqray) kết hợp với chất gây nghiện.

Miễn dịch trị liệu: Sử dụng thuốc miễn dịch kích thích hệ thống miễn dịch của người bệnh để tìm và tiêu diệt các tế bào ung thư. Ở những phụ nữ bị ung thư vú âm tính với HER2, có thể sử dụng thuốc điều trị miễn dịch atezolizumab (Tecentriq) và đôi khi được sử dụng kết hợp với hóa trị liệu paclitzxel (Abraxane). Hoặc Atezolizumab chặn một protein gọi là PD-L1.

Thử nghiệm lâm sàng: Thử nghiệm lâm sàng sẽ mang lại nhiều cơ hội cho phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn 3. Một thử nghiệm lâm sàng có thể cho phép người bệnh và bác sĩ điều trị tiếp cận các phương pháp điều trị tiên tiến như phương pháp điều trị mới-thuốc mới, hay phương pháp điều trị mới, thuốc mới kết hợp với phương pháp điều trị hiện tại đang được thử nghiệm lâm sàng.

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến ở nữ giới, ước tính hàng năm trên thế giới có rất nhiều phụ nữ tử vong về căn bệnh này. Theo đó, nếu bệnh ung thư vú được phát hiện sớm thì tiên lượng điều trị bệnh rất cao, thậm chí có thể khỏi hẳn và không tái phát. Vì thế, việc tầm soát ung thư vú là việc làm cần thiết, nhất là với các đối tượng có nguy cơ mắc ung thư vú cao.



Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Đã kiểm duyệt nội dung