Tên gọi khác: Ancylostoma duodenale
Triệu chứng
Không có triệu chứng hay dấu hiệu chuyên biệt nào để nhận biết việc nhiễm giun móc. Ở giai đoạn đầu, khi giun móc xuyên qua da có thể gây viêm da tại chỗ với các triệu chứng ngứa, có nhiều nốt màu đỏ và hết sau 1- 2 ngày. Ở giai đoạn sau, triệu chứng xuất hiện như da xanh, niêm mạc nhợt, đau vùng thượng vị tuỳ theo mức độ nhiễm giun, đau không có giờ nhất định, khi đói đau nhiều hơn, ăn không ngon miệng, khó tiêu.
Chẩn đoán
Xét nghiệm phân tìm trứng giun.
Điều trị
Chọn thuốc có tác dụng với nhiều loại giun, ít độc, dùng một liều duy nhất vẫn đạt hiệu quả cao. Nhiễm nhẹ: Albendazole (Zentel, Alzental,...) 400 mg liều duy nhất cho mọi lứa tuổi trên 2 tuổi hoặc Mebendazole (Vermox, Fugaca,...) liều duy nhất 500 mg hoặc Pyrantel pamoate (Combantrin, Embovin, Helmex,...) liều duy nhất 10 mg/kg cân nặng. Nhiễm nặng: Albendazole 400 mg/ngày x 3 ngày hoặc Mebendazole (Vermox, Fugaca,...) liều 500 mg/ngày x 3 ngày hoặc Pyrantel pamoate (Combantrin, Embovin, Helmex,...) liều 10 mg/kg/ngày x 3 ngày. Chú ý: Albendazole và Mebendazole chống chỉ định với trẻ dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc cho con bú, người có tiền sử mẫn cảm với Benzimidazol, người có tiền sử nhiễm độc tuỷ xương. Thận trọng khi điều trị cho người suy gan, suy thận.
Nguyên nhân
Giun móc là một loài ký sinh trùng sống trong ruột non của người. Bệnh lưu hành ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Phương thức lây truyền: Ấu trùng giun móc xâm nhập qua da, niêm mạc và qua đường ăn uống.
Đặc điểm của giun móc là khả năng hút máu người, vì vậy nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh sẽ bị thiếu máu. Ngoài ra, giun móc còn gây viêm hành tá tràng và tiết ra chất chống đông máu, chất độc ức chế cơ quan tạo máu sản sinh hồng cầu làm trầm trọng thêm tình trạng mất máu của bệnh nhân.
Phòng ngừa
Tên tác nhân: giun móc (Ancylostoma duodenale).
Hình thái:
Giun móc có mầu trắng sữa hoặc hơi hồng hoặc mầu đỏ nâu tuỳ thuộc trong ruột giun có máu hay không. Giun móc đực dài khoảng 8-11mm, giun móc cái dài 10-13 mm. Trong miệng có 2 đôi răng hình móc giúp giun ngoạm chặt vào niêm mạc tá tràng để hút máu.
Trứng ở ngoại cảnh, gặp nhiệt độ 25-350C sẽ phát triển thành ấu trùng có khả năng xâm nhập vào cơ thể người qua da và niêm mạc. Ấu trùng giun móc có nhiều đặc điểm giúp hướng tìm vật chủ:
Hướng lên cao: ấu trùng thường di chuyển lên những chỗ cao như mũi đất, thân cây, cột chống hoặc ngọn cỏ, ấu trùng có thể leo cao tới 2m. ấu trùng ít chui sâu xuống đất, có thể chui xuống 1m ở đất cát, 30cm ở đất mùn và 15cm ở đất sét.
Hướng tới nơi có độ ẩm cao: đây là cách thích nghi của ấu trùng. Khi gặp khô hanh, ấu trùng có thể chui sâu xuống đất có độ ẩm và nhiệt độ thích hợp hơn.
Hướng tới vật chủ: ấu trùng có khả năng phát hiện vật chủ. Tuy nhiên, do không phân biệt được loại vật chủ nên thường nhầm lẫn vật chủ như giun móc chó xâm nhập qua da người hoặc ngược lại, khi nhầm vật chủ ấu trùng sẽ bị chết.
Trứng giun móc bắt buộc phải có thời gian phát triển ở ngoại cảnh thành ấu trùng mới có khả năng xâm nhập vào cơ thể vật chủ. Hầu hết trứng giun móc không nở được ở nhiệt độ 450C và ở nhiệt độ trên 450C, ấu trùng bị diệt trong vòng 90 phút. Đất mầu, đất phù sa ven sông, đất mùn tạo điều kiện thuận lợi cho ấu trùng phát triển, đất sét, đất mặn hạn chế sự phát triển của ấu trùng.
Dung dịch clorua natri bão hoà giết ấu trùng sau 15-20 phút. Với dung dịch clorua thủy ngân 1%, dung dịch formalin và dung dịch phenol, ấu trùng chết sau 5-6 giờ.
Điều trị
Tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao ý thức vệ sinh cá nhân và cộng đồng, bảo vệ môi trường không bị nhiễm phân:
Vệ sinh môi trường, đặc biệt là khu vực gần nhà, trong nhà và khu vực vui chơi của trẻ em.
Xây hố xí hợp vệ sinh.
Xây dựng nếp sống vệ sinh cá nhân tốt như rửa tay trước khi ăn hoặc chuẩn bị thức ăn, không ăn rau sống khi chưa rửa thật sạch.
Không dùng phân tươi bón ruộng, vườn.
Ở vùng hầm mỏ, hàng năm phải khám sức khoẻ và xét nghiệm giun móc/giun mỏ ít nhất 1 lần/năm và điều trị triệt để cho những người nhiễm giun móc/giun mỏ.
Tẩy giun định kỳ 2 lần/năm cách nhau 4-6 tháng.
Sử dụng bảo hộ lao động trong lao động sản xuất khi tiếp xúc với đất, đặc biệt là đất nhiễm phân người.
Phát động các chiến dịch dọn vệ sinh trong cộng đồng dân cư, xây dựng hệ thống cống rãnh, xử lý nước thải. Có thể xử lý phân bằng vôi bột 150 -200 g/ kg phân, trứng chết sau 30 phút đến 1 giờ.