Bronchiectasis

Là bệnh lý mở rộng các ống phế quản, thường do viêm tái phát hoặc nhiễm trùng đường hô hấp gây ra. Bệnh thường xuất hiện trong thời thơ ấu do biến chứng từ nhiễm trùng hoặc hít phải vật lạ, nhưng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi.

Tên gọi khác: Bronchiectasis

Triệu chứng

Ho, đờm nhuốm máu, khó thở, thở khò khè, mệt mỏi.

Chẩn đoán

  • Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

  • Chụp X-quang và CT scan.

  • Phân tích đờm có thể được thực hiện để loại trừ vi khuẩn, nấm hay bệnh lao (TB) lây nhiễm.

Điều trị

Thuốc giãn phế quản (Albuterol, Ipratropium), Expectorants và kháng sinh. Phẫu thuật cắt bỏ phần phổi bị ảnh hưởng có thể được thực hiện trong một số trường hợp.

Bronchiectasis - Ảnh minh họa 1
Bronchiectasis - Ảnh minh họa 2
Bronchiectasis - Ảnh minh họa 3

Nguyên nhân

Giãn phế quản là bệnh lý khá thường gặp. Hầu hết các bệnh nhân giãn phế quản có triệu chứng lâm sàng điển hình như ho, khạc đờm mủ kéo dài; tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân xuất hiện giãn phế quản không hề có triệu chứng, hoặc có triệu chứng giống hen phế quản... Vậy giãn phế quản là gì?

Giãn phế quản là tình trạng giãn không hồi phục của cây khí phế quản, có thể giãn phế quản chỉ khu trú ở một vùng của phổi, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp giãn phế quản là giãn lan tỏa, bị cùng lúc khắp các vị trí lòng phế quản ở cả hai bên.

Do lòng phế quản bị giãn rộng, các lông chuyển ở đường hô hấp bị tổn thương, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc vận chuyển đờm và các chất tiết đường hô hấp ra ngoài.

Khi chất tiết, dịch đường hô hấp bị ứ đọng lại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường hô hấp, quá trình nhiễm trùng này lại gây tổn thương niêm mạc đường thở, làm cho tình trạng giãn phế quản ngày một nặng thêm.

Phòng ngừa

Giãn phế quản mắc phải

Loại này chiếm tới 90% số bệnh nhân giãn phế quản. Có thể gặp khi:

  • Viêm đường hô hấp kéo dài: thường là hậu quả của các bệnh như viêm xoang, viêm tai, viêm mũi, viêm vùng răng miệng, nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm vi-rút đường hô hấp, một số bệnh nghề nghiệp... Các bệnh này gây nhiễm khuẩn phế quản kéo dài và tái diễn, dẫn đến tổn thương các sợi cơ, sợi chun và sụn phế quản. Đồng thời, các chất xuất tiết ùn tắc lại trong phế quản và phản xạ ho gây tăng áp lực trong lòng phế quản kéo dài sẽ dẫn tới giãn phế quản.

  • Lao phổi: trong lao phổi, hiện tượng xơ sẹo phát triển sẽ gây biến dạng và chít hẹp phế quản, tại đó tình trạng viêm nhiễm và ứ đọng các chất xuất tiết sẽ dẫn tới tổn thương các cấu trúc thành phế quản, kết hợp với phản xạ ho gây tăng áp kéo dài sẽ làm phế quản bị giãn ra. Tuỳ từng thể lao mà khả năng gây giãn phế quản khác nhau: lao xơ hang gây giãn phế quản nhiều hơn 4 lần lao hạt và nhiều hơn 11 lần lao thâm nhiễm.

  • Các bệnh viêm nhiễm vi-rút ở phổi và phế quản: các bệnh này gây bội nhiễm, ho và tăng áp trong lòng phế quản kéo dài. Lúc đầu, giãn phế quản chỉ là tạm thời, nhưng do điều trị không tốt nên tổn thương không hồi phục và dẫn tới bệnh giãn phế quản.

  • Các tổn thương gây hẹp phế quản: khi các phế quản bị hẹp sẽ gây ùn tắc trong phế quản, gây viêm nhiễm, xuất tiết kéo dài và tổn thương các cấu trúc thành phế quản, đồng thời sự chít hẹp này cũng gây tăng áp trong lòng phế quản và dẫn tới giãn phế quản tăng dần. Các bệnh lý hay gây nên tình trạng này là các Polyp phế quản, dị vật phế quản, các bệnh lý hạch ở rốn phổi như lao hạch, Hodgkin, Lymphosarcom...

  • Giãn phế quản do hoá chất: thường gặp ở những người làm việc lâu ngày với các hoá chất bay hơi. Các hoá chất này bị hít vào đường hô hấp gây kích thích, tăng tiết và tổn thương cấu trúc thành phế quản, đồng thời gây phản xạ ho và tăng áp trong lòng phế quản kéo dài dẫn tới giãn phế quản.

Giãn phế quản bẩm sinh

Giãn phế quản bẩm sinh chỉ chiếm khoảng 10% số bệnh nhân giãn phế quản. Đa số đều thấy ở bệnh nhân trẻ và có kết hợp với bệnh phổi đa nang. Giãn phế quản bẩm sinh thường là loại giãn phế quản hình túi và thường có những tổn thương bẩm sinh khác kèm theo.

Điều trị

Muốn điều trị hiệu quả bệnh phải loại trừ mọi kích thích phế quản: thuốc lá, thuốc lào, khói bếp, khói bụi công nghiệp… Phát hiện và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn ở răng, tai mũi họng. Phải phục hồi chức năng hô hấp: cần làm thường xuyên với tập thở, ho có điều khiển, gõ ngực cho đờm dễ dàng dẫn lưu ra ngoài, nằm đầu thấp với các tư thế khác nhau tùy theo vùng phế quản giãn nhiều lần trong ngày để dẫn lưu theo tư thế; phun hít thuốc giãn nở phế quản kích thích β2 (salbutamol, terbutaline...). Khi bệnh nhân sốt, khạc nhiều đờm, đờm mủ, biến chứng nhiễm khuẩn nhu mô, màng phổi: dùng các kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc. Nếu bệnh nhân có quá nhiều đờm dịch ùn tắc phế quản hay các tổn thương gây tắc phế quản không đáp ứng tốt với thuốc phải tiến hành nội soi phế quản để hút dịch.

Trường hợp giãn phế quản cục bộ một bên phổi, khi nung mủ nhiều hoặc ho máu nặng, điều trị nội khoa thất bại thì cần phải phẫu thuật. Để phòng bệnh hiệu quả, cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp. Nếu bị viêm phế quản, viêm mũi, xoang cần điều trị sớm và triệt để. Các vaccin phòng cúm, phế cầu cũng được khuyến cáo sử dụng, cần tiêm nhắc lại hàng năm trước mùa dịch dễ bùng phát khoảng 1 tháng. Trẻ em và người già, người hay mắc bệnh đường hô hấp rất cần được bảo vệ bằng vaccin.