Tên gọi khác: Cholecystitis
Triệu chứng
Đau bụng (bụng trên bên phải), nôn mửa, sốt, vàng da.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Siêu âm sẽ được thực hiện để xác định sỏi mật và thiết lập chẩn đoán.
Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng có thể được sử dụng.
Nếu không có sỏi mật được nhìn thấy trên kiểm tra hình ảnh, Hida Scan sẽ được tiến hành để phát hiện nguyên nhân khác gây ra viêm túi mật.
Điều trị
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), xét nghiệm Lipase
Nguyên nhân
Mặc dù là bệnh khá phổ biến, song đến nay bệnh lý viêm túi mật vẫn chưa được cộng đồng chú ý đúng mức.
Hầu hết bệnh nhân bị viêm túi mật cấp, triệu chứng thuyên giảm sau 1 - 4 ngày. Tuy nhiên, khoảng 25 - 30% bệnh nhân phải phẫu thuật hoặc xuất hiện các biến chứng.
Bệnh nhân bị viêm túi mật không do sỏi có tỷ lệ tử vong khoảng dưới 10%, lớn hơn nhiều so với khoảng 4% ở những bệnh nhân viêm túi mật do sỏi. Nếu có hơi trong đường mật, tỷ lệ tử vong xấp xỉ 15%.
Thủng túi mật xảy ra ở khoảng 10 - 15% trường hợp.
Rất nhiều trường hợp vẫn nhập viện trong tình trạng đã biến chứng khá nặng. Đặc biệt những người có nguy cơ cao ít biết trước mình có khả năng mắc bệnh, đó là những người cao tuổi, phụ nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc điều trị... Viêm túi mật không do sỏi gây tử vong cao hơn viêm túi mật do sỏi.
Phòng ngừa
90 - 95% các trường hợp bị viêm túi mật là do sỏi.
Sỏi di chuyển, cọ xát làm tổn thương thành túi mật hoặc gây tắc nghẽn các ống dẫn mật, khiến dịch mật bị ứ lại trong túi mật. Khi đó các hoạt chất hoặc vi khuẩn có trong dịch mật bị tích tụ có thể làm túi mật bị viêm.
Tổn thương: Phẫu thuật hoặc những chấn thương vùng bụng nghiêm trọng có thể làm tổn thương túi mật dẫn đến viêm.
Nhiễm trùng: Nhiễm khuẩn hoặc nhiễm kí sinh trùng đường mật có thể dẫn đến viêm túi mật.
Khối u: Một khối u có thể gây chèn ép hệ thống đường dẫn mật, ngăn cản dòng chảy của dịch mật, khiến mật bị ứ lại trong túi mật và có thể dẫn đến viêm túi mật.
Những người có chế độ ăn giàu chất béo sẽ làm tăng khả năng phát triển bệnh viêm túi mật trên nền tình trạng trên. Bên cạnh đó, bệnh nhân tiểu đường, người giảm cân nhanh, phụ nữ mang thai, có thể bị tổn thương túi mật và tăng nguy cơ bị viêm túi mật.
Điều trị
Khi bị viêm túi mật cấp tính, cần phải để cho túi mật nghỉ ngơi, muốn vậy phải loại bỏ hoặc giảm bớt các chất béo.
Chế độ ăn chỉ nên có glucid như nước đường, nước quả, nước rau, sau đó cho thêm bột như bột ngũ cốc, khoai nghiền và cần phải ăn nhạt, nhiều xơ để chống táo bón, có thể cho ăn sữa đã tách bơ.
Trong trường hợp viêm túi mật hoặc đường mật mạn tính, bệnh nhân thường có triệu chứng rối loạn tiêu hóa, cần áp dụng một chế độ ăn nương nhẹ chức năng mật. Có nghĩa là tương tự chế độ ăn nương nhẹ chức năng gan, cụ thể:
Cần hạn chế các chất béo: Các chất béo không chỉ ảnh hưởng đến gan, mật mà còn cả dạ dày. Mỡ làm cho môn vị mở chậm và gây ra đầy trướng vì nó tích tụ trong dạ dày. Mỡ cản trở sự bài tiết axít HCl cần cho sự tiêu hóa protid, mỡ làm cho mật xuống ruột không đều, tăng chất độc vào máu, ảnh hưởng tới gan.
Với các thức ăn giàu protid: hằng ngày chỉ ăn một lần thịt, dùng loại thịt trắng và nạc không có mỡ. Đạm thực vật (đậu, đỗ) nên ăn dưới dạng nghiền nát, ninh nhừ.
Với các thức ăn có nhiều glucid: Có thể dùng nhiều vì dễ tiêu, không ảnh hưởng xấu đến mật, không dùng sôcôla hoặc cacao, không dùng các thức ăn có bột trộn thêm trứng (ví dụ các loại bánh ngọt) vì gây khó tiêu. Rau quả có thể dùng nhiều hơn so với các bệnh ở gan.