Tên gọi khác: Chứng ăn nôn
Triệu chứng
Thường ăn rất nhiều, gấp mấy lần số lượng ăn bình thường; Cảm thấy không thể kiểm soát thói quen ăn uống của mình; Sau khi ăn, tìm cách để không lên cân bằng cách tự làm nôn ra, uống thuốc xổ hay thuốc lợi tiểu, nhịn đói hay vận động cơ thể thật nhiều; Quá chú ý một cách bất thường đến hình dạng thân thể và cân nặng; Bị mất nước, mệt mỏi, yếu ớt; Trầm cảm, bứt rứt; Da khô, vàng.; Răng và lợi bị hư hoại do chất nước chua của bao tử khi nôn ra.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu để xác định rối loạn chuyển hóa có thể được thực hiện
Điều trị
Điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Điều trị các rối loạn chuyển hóa như sodium thấp, kali thấp, mất nước. Điều trị tâm lý có thể bao gồm: liệu pháp hành vi và tư vấn. Thuốc chống trầm cảm đôi khi được sử dụng.
Nguyên nhân
Rối loạn ăn uống có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng về thể chất và thậm chí có thể đe dọa tính mạng.
Các chứng rối loạn ăn uống
Chứng nhịn ăn (Anorexia Nervosa): Người mắc chứng này lúc nào cũng thấy là mình quá mập và tự nhịn ăn cho đến khi chỉ còn da bọc xương mà vẫn nhịn. Chứng này có thể đưa đến tử vong như đã nói trên.
Chứng ăn nôn (Bulimia Nervosa): Người mắc chứng này ăn nhiều, cứ cho thức ăn vào miệng xong tìm cách nôn ra hết để khỏi lên cân.
Chứng ăn nhiều (Binge Eating Disorder): Như tên gọi, người mắc chứng này có những bữa ăn thật nhiều nhưng không nôn ra.
Ngoài những hội chứng chính như trên, còn có những dạng khác như nôn mà không ăn nhiều, nhai và nhổ ra và nhịn ăn nhưng không đến nỗi xuống cân quá nhiều.
Đa số những người Mỹ mắc những chứng trên là nữ trong tuổi từ 12 tới 25. Phái nam ít bị hơn ngoại trừ trường hợp chứng ăn thật nhiều.
Phòng ngừa
Hiện chưa xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh, tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, sự phát triển của xã hội, truyền thông, quảng cáo trong việc đề cao hình dáng mảnh khảnh của giới người mẫu đã làm thay đổi suy nghĩ của các trẻ vị thành niên, thúc đẩy hình thành các rối loạn ăn uống.
Kết quả nghiên cứu năm 2008 bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Y khoa Pittsburgh là một ví dụ, 24% bệnh nhân mắc rối loạn tâm thần lưỡng cực có biểu hiện giống như các chỉ tiêu chẩn đoán xác định có rối loạn ăn uống. Ước tính có khoảng 44% bệnh nhân gặp khó khăn trong việc kiểm soát vấn đề ăn uống của họ.
Điều trị
Để phòng ngừa rối loạn ăn uống, vai trò của xã hội, nhất là của các phương tiện thông tin đại chúng là rất quan trọng. Hiện đã có hình ảnh các diễn viên, người mẫu không còn quá mỏng manh, gây ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của thanh, thiếu niên. Tuy nhiên, cần phải tuyên truyền, mới có nhiều người hiểu và nhận thức rõ giới hạn của cân nặng và chiều cao bình thường, không bị ám ảnh quá mức, kiêng khem quá mức mà dẫn đến suy dinh dưỡng hoặc bị các rối loạn khác.
Với trẻ nhỏ, rối loạn ăn uống hay xảy ra sau một ấn tượng xấu liên quan đến ăn uống như bị ép ăn quá mức, ăn quá đơn điệu; món ăn gợi nhớ lại một kỷ niệm buồn, một ám ảnh sợ hãi như bỏng, đau, sặc... Biểu hiện thường ở 2 dạng sợ ăn do tâm lý và nôn do tâm lý.
Trẻ mắc bệnh thường rất sợ thức ăn, dễ nôn hoặc nôn vọt khi bắt đầu bữa ăn, thậm chí chỉ cần ngửi thấy mùi thức ăn hay nhìn thấy chén dĩa đựng thức ăn đã bị nôn. Lúc đầu trẻ chỉ sợ một vài món, sau đó sẽ sợ ăn và chuyển dần đến suy dinh dưỡng và bị các biến chứng của suy dinh dưỡng. Trẻ mắc chứng cuồng ăn sẽ dễ bị kích động, ưa bạo lực. Việc thay đổi hợp lý các món ăn, thay đổi môi trường ăn thích hợp, ăn đúng phương pháp, không ép ăn quá mức và ăn đúng thời điểm sẽ giúp ngăn ngừa và điều trị hiệu quả hơn.
Phụ huynh của trẻ bị chán ăn và nôn do tâm lý cũng cần được tư vấn kịp thời để giúp trẻ thoát khỏi căn bệnh này.