Tên gọi khác: Nhiễm trùng kí sinh lợn
Triệu chứng
Đau bụng, tiêu chảy có thể đến 15 lần mỗi ngày; mót rặn, phân có chất nhầy, máu. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị tử vong.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Điều trị
Điều trị bệnh nhân bị nhiễm Balantidium được thực hiện theo nguyên tắc điều trị giống như điều trị bệnh lỵ Amíp
Tổng quan
Nhiễm trùng lông Balantidium coli hay Nhiễm trùng kí sinh lợn là bệnh gì?
Trùng lông còn được gọi là mao trùng vì nó chuyển động bằng lông. Có nhiều loại trùng lông khác nhau, các nhà khoa học đã căn cứ vào sự sắp xếp của lông để phân loại. Trong các loại thường gặp, trùng lông Balantidium coli sống ký sinh và gây bệnh cho người. Chúng thuộc nhóm có lông chung quanh bào khẩu, lông mọc dài và rậm hơn ở các vùng khác của cơ thể. Bản chất của loại trùng lông Balantidium coli là sống hội sinh, chúng chỉ tấn công vào thành ruột để gây bệnh khi niêm mạc ruột bị tổn thương do một nguyên nhân nào đó. Thông thường niêm mạc ruột bị tổn thương do nhiễm trùng, nhiễm độc thức ăn, thương hàn, lỵ trực khuẩn...
Triệu chứng
Đau bụng, tiêu chảy có thể đến 15 lần mỗi ngày; mót rặn, phân có chất nhầy, máu. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị tử vong.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm phân, soi trực tràng.
Điều trị
Điều trị bệnh nhân bị nhiễm Balantidium được thực hiện theo nguyên tắc điều trị giống như điều trị bệnh lỵ Amíp. Các loại thuốc điều trị đặc hiệu có hiệu lực tốt thuộc các dẫn chất của Emetine như Emetine chlohydrate, Dehydroemetine...; các dẫn chất của Iode như Yatren, Mixiode...; các dẫn chất của Asen như Carbazole, Bemarsal... hoặc loại thuốc Metronidazole với các biệt Dược như Flagyl, Klion, Entizol, Orvagyl...
Nguyên nhân
Trùng lông còn được gọi là mao trùng vì nó chuyển động bằng lông. Có nhiều loại trùng lông khác nhau, các nhà khoa học đã căn cứ vào sự sắp xếp của lông để phân loại. Trong các loại thường gặp, trùng lông Balantidium coli sống ký sinh và gây bệnh cho người. Chúng thuộc nhóm có lông chung quanh bào khẩu, lông mọc dài và rậm hơn ở các vùng khác của cơ thể.
Đặc điểm loại trùng lông Balantidium coli
Nguồn bệnh của trùng lông là những người bệnh bị nhiễm Balantidium coli cấp tính hoặc mạn tính và người lành mang trùng. Trước đây nhiều nhà khoa học cho rằng loài lợn cũng là nguồn bệnh vì trong phân lợn thường phát hiện thấy trùng lông giống y như Balantidium coli nhưng do chúng ký sinh ở lợn nên được gọi tên là Balantidium suis. Qua nghiên cứu về đặc điểm sinh học, các nhà khoa học đã xác định Balantidium suis là loài khác với Balantidium coli. Để chứng minh cho vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã dùng Balantidium suis gây bệnh cho người nhưng không có kết quả. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số nghiên cứu công bố xác định nguồn bệnh cũng có ở loài lợn.
Trùng lông Balantidium coli hình thành thể kén khi ở điều kiện môi trường bất lợi như gặp phân rắn, độ pH thay đổi... Kén sẽ theo phân ra ngoại cảnh, từ môi trường ngoại cảnh kén xâm nhập vào cơ thể người qua đường tiêu hóa, di chuyển đến manh tràng và biến thành thể hoạt động.
Bản chất của loại trùng lông Balantidium coli là sống hội sinh, chúng chỉ tấn công vào thành ruột để gây bệnh khi niêm mạc ruột bị tổn thương do một nguyên nhân nào đó. Thông thường niêm mạc ruột bị tổn thương do nhiễm trùng, nhiễm độc thức ăn, thương hàn, lỵ trực khuẩn...
Phòng ngừa
Trùng lông Balantidium coli có hai thể là thể hoạt động và thể kén. Cả hai thể hoạt động và thể kén của trùng lông đều là mầm bệnh.
- Thể hoạt động: có hình trứng, không đối xứng, phía đầu hơi nhọn, phía đuôi hơi tròn. Kích thước trung bình chiều dài khoảng từ 50-70µm, chiều rộng khoảng từ 40-60 µm. Toàn thân trùng lông có màng bọc, trên màng có những hàng lông mọc song song. Gần đầu trùng lông có một khe nhỏ gọi là bào khẩu (Cytostome), có lông để vơ nuốt thức ăn. Phía đuôi có một khe nhỏ gọi là hậu môn (Cytopyre) để bài tiết. Bào tương của trùng lông có hai lớp, lớp ngoài rất mỏng nên khó quan sát thấy; lớp trong chứa các không bào tiêu hóa, trong đó có nhiều vi khuẩn, mảnh thức ăn và có hai không bào co bóp thường ở phía sau thân. Nhân của trùng lông có hai loại, loại nhân lớn hình hạt đậu giữ chức năng dinh dưỡng; loại nhân nhỏ nằm ở chỗ lõm của nhân lớn giữ chức năng sinh sản và thường bị che lấp nên khó nhìn thấy.
Thể hoạt động của trùng lông sống lâu ở ngoại cảnh và có thể xâm nhập vào đường tiêu hóa một cách dễ dàng mà không bị tiêu diệt.
Thể kén: có dạng hình cầu, kích thước trung bình khoảng từ 50-60µm. Chúng có hai lớp vỏ dày, bên trong có loại nhân to, nhân nhỏ và có không bào co bóp.
Thể kén của trùng lông trong điều kiện nhiệt độ từ 18-20oC và độ ẩm cao có thể sống được khoảng 2 tháng. Với điều kiện khí hậu khô, không có ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp thì có thể sống được khoảng 1-2 tuần. Dưới ánh sáng mặt trời, chúng chỉ sống được khoảng 3 giờ. Các loại dung dịch như phenol 5% có thể diệt được thể kén sau 3 giờ, phenol 10% có thể diệt được thể kén sau 4 giờ.
Điều trị
Thực hiện các biện pháp giống như phòng chống bệnh lỵ Amíp, chủ yếu là bảo đảm vệ sinh ăn uống, vệ sinh nguồn nước sử dụng và quản lý chặt chẽ nguồn phân thải.