Peripheral arterial disease

Bệnh động mạch ngoại vi, trong đó đại đa số xảy ra ở chi dưới là tình trạng hẹp - tắc lòng mạch do vữa xơ động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch

Tên gọi khác: Động mạch ngoại biên, PAD

Triệu chứng

Một số yếu tố nguy cơ bao gồm: hút thuốc lá, tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ, ít vận động, béo phì

Điều trị

Chụp cắt lớp vi tính mạch (một loại CT Scan) hoặc chụp cộng hưởng từ mạch máu não (MRA) để thiết lập chẩn đoán.

Tổng quan

Động mạch ngoại biên, PAD hay Peripheral arterial disease

Bệnh động mạch ngoại vi, trong đó đại đa số xảy ra ở chi dưới là tình trạng hẹp - tắc lòng mạch do vữa xơ động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch. Phần lớn những người mắc bệnh động mạch ngoại vi không tự phát hiện được mình mắc bệnh này bởi vì họ không cảm thấy đau, không cảm thấy khó chịu hay có dấu hiệu thực thể nào.

Triệu chứng

Một số yếu tố nguy cơ bao gồm: hút thuốc lá, tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ, ít vận động, béo phì…

Chuột rút; chân tê yếu; lạnh ở bắp chân hoặc bàn chân; đau ngón chân, bàn chân; vết thương chân không lành; thay đổi màu sắc của chân; rụng lông chân hoặc lông chân mọc chậm hơn; chậm phát triển móng chân; da chân sáng bóng; không có mạch hoặc mạch yếu ở chân hoặc bàn chân; Rối loạn cương dương ở nam giới.

Điều trị

  • Hỏi bệnh sử và khám thực thể.

  • Chụp cắt lớp vi tính mạch (một loại CT Scan) hoặc chụp cộng hưởng từ mạch máu Não (MRA) để thiết lập chẩn đoán.

  • Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP).

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), điện tâm đồ (EKG), chụp cộng hưởng từ (MRI) và X-quang, siêu âm tim.

Peripheral arterial disease - Ảnh minh họa 1
Peripheral arterial disease - Ảnh minh họa 2
Peripheral arterial disease - Ảnh minh họa 3
Peripheral arterial disease - Ảnh minh họa 4
Peripheral arterial disease - Ảnh minh họa 5

Nguyên nhân

Bệnh động mạch ngoại vi, trong đó đại đa số xảy ra ở chi dưới là tình trạng hẹp - tắc lòng mạch do vữa xơ động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch.

Theo thống kê có khoảng 27 triệu người ở Bắc Mỹ và Châu Âu mắc bệnh động mạch ngoại vi. Ở những quốc gia phát triển, ước lượng có 16% dân số ở độ tuổi từ 55 tuổi trở lên bị mắc chứng bệnh này. Tuy nhiên, phần lớn những người mắc bệnh động mạch ngoại vi không tự phát hiện được mình mắc bệnh này bởi vì họ không cảm thấy đau, không cảm thấy khó chịu hay có dấu hiệu thực thể nào.

Bệnh động mạch ngoại vi không chỉ là bệnh lý ở vị trí tay hay chân mà còn là dấu hiệu báo trước những nguy cơ cao về vấn đề sức khỏe trong tương lai, như là cơn đau tim và đột quỵ. Một số yếu tố nguy cơ bao gồm: hút thuốc lá, tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ, ít vận động, béo phì…

Phòng ngừa

Giống như chứng xơ vữa động mạch, bệnh động mạch ngoại vi do sự tích tụ mỡ – còn gọi là mảng bám trong động mạch gây ra.

Các động mạch bị tắc ngăn không cho máu giàu ôxy đến nuôi cơ khi cơ cần nó nhất. Việc thiếu hụt ôxy gây đau đớn. Bệnh động mạch ngoại vi có thể làm tăng nguy cơ cơn đau tim và đột quị. Nhưng tin tốt lành là bệnh động mạch ngoại vi có thể được chẩn đoán và điều trị dễ dàng.

Với cơn đau hạn chế vận động, bệnh nhân dần dần chuyển từ lối sống năng động sang lối sống ít vận động. Kết quả của lối sống này là lười vận động và giảm tuổi thọ do tăng nguy cơ huyết áp cao, cơn đau tim và đột quị.

Nguyên nhân thông thường nhất dẫn đến bệnh động mạch ngoại vi là sự tắc nghẽn ở động mạch (còn gọi là chứng xơ vữa động mạch).

Lâu dần, sự tắc nghẽn này tạo nên những mảng mô cứng ở động mạch chân, sự tắc nghẽn từng bước làm giảm lượng máu giàu ôxy từ tim dẫn đến cơ chân và da.

Điều trị

Các phương pháp có thể áp dụng

  • Bỏ thuốc lá nếu là người hút thuốc.

  • Nếu bị tiểu đường, hãy kiểm soát đường huyết tốt.

  • Tập thể dục thường xuyên. Mục tiêu là 30 phút, ít nhất 3 lần/tuần sau khi đã nhận được sự đồng ý của bác sĩ.

  • Hạ cholesterol và mức huyết áp, nếu cần thiết.

  • Ăn thức ăn có ít chất béo bão hòa.

  • Duy trì cân nặng khỏe mạnh.