1. Chu kỳ kinh nguyệt là gì?
Chu kỳ kinh nguyệt là tập hợp các thay đổi sinh lý có tính chu kỳ ở phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục nhằm sản sinh giao tử cái phục vụ cho mục đích sinh sản. Đánh dấu của tuổi dậy thì khi kỳ kinh đầu tiên xuất hiện và kỳ kinh cuối cùng kết thúc đánh dấu cho giai đoạn mãn kinh ở người phụ nữ
Trong chu kỳ kinh nguyệt, buồng trứng chứa nang trưởng thành phóng thích một trứng (đôi khi 2 trứng, có thể dẫn đến hình thành 2 hợp tử và sinh đôi khác trứng). Trước khi rụng trứng, nội mạc tử cung tăng sinh để phục hồi lại lớp nội mạc trước đó đã bị bong ra ở lần Hành kinh trước. Sau khi phóng noãn, nội mạc này thay đổi để phù hợp cho trứng đã được thụ tinh làm tổ.
Nếu sự thụ tinh không xảy ra, lớp nội mạc ở tử cung sẽ bong ra, tống xuất ra ngoài và chu kỳ kinh mới bắt đầu. Quá trình loại bỏ nội mạc được gọi là Hành kinh và biểu hiện ra bên ngoài là máu kinh (phần nội mạc tử cung và các sản phẩm của máu) được tống xuất ra khỏi cơ thể qua âm đạo.
Chu kỳ kinh nguyệt đầu tiên thường diễn ra vào độ tuổi từ 12 đến 17 tuổi. Đôi khi kinh nguyệt có thể diễn ra sớm hơn, từ lúc các bé gái mới 8 tuổi, đây vẫn được coi là bình thường. Tuổi bắt đầu hành kinh trung bình ở các nước đang phát triển thường muộn hơn các nước đã phát triển. Thời gian giữa hai kỳ kinh nguyệt thường là từ 21 đến 45 ngày ở nữ giới trẻ tuổi và từ 21 đến 31 ngày ở nữ giới trưởng thành (tính trung bình là 28 ngày). Phụ nữ bước vào giai đoạn mãn kinh từ 45 đến 55 tuổi, đánh dấu bởi sự giảm dần về tần suất của chu kỳ kinh nguyệt.
Chu kỳ kinh nguyệt được điều khiển bởi sự thay đổi nồng độ các hormone sinh dục trong cơ thể. Tác động trực tiếp đến chu kỳ kinh nguyệt là estrogen và progesterone. Sự gia tăng và sụt giảm của hai hormon này chính là động lực chính để tạo nên chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ
Sau khi hành kinh, các nang noãn ở buồng trứng bắt đầu được chiêu mộ và sản xuất estrogen. Nồng độ estrogen tăng lên kích thích nội mạc tử cung tăng sinh và dày lên. Nang trứng trong buồng trứng bắt đầu phát triển dưới sự chi phối phức tạp của các hormon, và sau một vài ngày một hoặc đôi khi là hai nang trứng phát triển vượt trội, trong khi những nang trứng khác bị thoái triển.
Ở khoảng giữa chu kỳ, 24–36 tiếng sau khi lượng hormone LH tăng lên đột biến, nang trứng vượt trội sẽ phóng thích một trứng, đây gọi là sự rụng trứng. Sau khi rụng, tế bào trứng chỉ có thể sống trong khoảng 24 giờ hoặc thậm chí ít hơn để chờ thụ tinh. Phần còn lại của nang noãn trong buồng trứng sẽ biến thành hoàng thể; thể này có chức năng chính là sản xuất ra một lượng lớn progesterone.
Dưới tác động của progesterone, nội mạc tử cung sẽ biến đổi để chuẩn bị chờ phôi thai về làm tổ, khi đó cơ thể bước vào trạng thái mang thai. Nếu trong khoảng hai tuần mà không có phôi thai đến làm tổ, thể vàng bị thoái hóa làm lượng hormone progesterone và estrogen giảm mạnh. Sự suy giảm hormone ấy làm cho lớp nội mạc tử cung bong ra, gọi là kinh nguyệt.
2. Tác động của các hormone sinh dục lên hệ tim mạch
Bên cạnh những tác động của estrogen và progesterone lên các cơ quan sinh dục và cụ thể hơn là chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ, hai hormone này có có tác dụng đến những cơ quan khác trong đó có hệ tim mạch.
2.1 Tác động của estrogen lên hệ tim mạch
Các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu về các hoạt động của estrogen trong cơ thể. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng estrogen ảnh hưởng đến hầu hết mọi mô hoặc hệ cơ quan, bao gồm cả tim và mạch máu. Các tác dụng được biết đến của estrogen trên hệ thống Tim mạch bao gồm những tác động tích cực cũng như tiêu cực.
- Tăng Cholesterol HDL (loại tốt);
- Giảm cholesterol LDL (loại xấu);
- Giãn mạch máu để lưu lượng máu tăng;
- Hấp thụ các gốc tự do, các gốc tự do này xuất hiện tự nhiên trong máu có thể làm tổn thương động mạch và các mô khác;
- Tăng nguy cơ hình thành huyết khối và cũng như gây ra một số thay đổi có tác dụng bất lợi khác.
Estrogen có thể ảnh hưởng đến hệ thống Tim mạch theo những cách khác nhưng vẫn chưa được khám nghiên cứu rõ. Trong những năm qua, bằng chứng đã đề xuất estrogen cũng giúp bảo vệ phụ nữ chống lại bệnh tim mạch. Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ mắc bệnh tim muộn hơn 10 năm so với nam giới, nhưng đến năm 65 tuổi, nguy cơ của họ tương đương với nam giới.
Giả thuyết được đặt ra là do sự sụt giảm nồng độ estrogen liên quan đến mãn kinh chiếm tỷ lệ cao trong nguy cơ mắc bệnh tim ở phụ nữ. Khi nồng độ estrogen giảm, nồng độ cholesterol LDL (loại có hại) tăng và mức cholesterol HDL (loại có lợi) giảm, dẫn đến sự tích tụ chất béo và cholesterol trong các động mạch góp phần gây ra xơ vữa mạch máu, nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Điều này có ý nghĩa rằng liệu pháp thay thế estrogen sẽ có khả năng cải thiện sức khỏe của tim mạch sau độ tuổi mãn kinh. Tuy nhiên vẫn cần nhiều nghiên cứu thêm về vấn đề này.
2.2. Tác động của progesterone lên hệ tim mạch
Có nhiều bằng chứng quan trọng cho thấy progesterone (không giống như progestin tổng hợp) không có tác dụng bất lợi đối với các yếu tố nguy cơ tim mạch. Không có thay đổi trong bất kỳ dấu hiệu huyết khối hoặc viêm nào được nghiên cứu, giúp cải thiện triệu chứng đáng kể so với giả dược.
Khi progesterone tự nhiên được sử dụng trong một nhóm trong nghiên cứu PEPI thay cho medroxyprogesterone acetate (MPA), nhóm progesterone tự nhiên có nồng độ cholesterol HDL cao hơn đáng kể so với nhóm MPA.
Không những progesterone tự nhiên không có tác động xấu trên hệ thống tim mạch, mà còn có bằng chứng về tác dụng có lợi. Một nghiên cứu cho thấy, gel âm đạo chứa progesterone giúp tăng khả năng gắng sức ở phụ nữ sau mãn kinh bị bệnh động Mạch vành hoặc nhồi máu cơ tim trước đó đang được điều trị bằng estrogen, khi so với nhóm chỉ điều trị Estradiol đơn thuần ở phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Việc giảm nguy cơ đau tim, đau thắt ngực, đột quỵ và các bệnh tim mạch và mạch máu lớn khác bằng cách khôi phục cân bằng hormone có thể làm giảm sự suy giảm chức năng tim mạch ở phụ nữ trong nhiều thập kỷ.
3. Sự thay đổi nồng độ hormone sinh dục trong chu kỳ kinh nguyệt cũng ảnh hưởng đến hệ tim mạch
Phụ nữ mắc bệnh tim mạch có nguy cơ bị đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim trong một số giai đoạn nhất định của chu kỳ. Vào một thời điểm nhất định trong chu kỳ kinh nguyệt, khi nồng độ estrogen lưu thông trong máu giảm, những phụ nữ có xu hướng bị đau ngực tăng hơn hoặc đau thắt ngực nhiều hơn.
Khi kiểm tra bằng các Xét nghiệm đánh giá tình trạng tưới máu của cơ tim, những bệnh nhân này có kết quả đánh giá chức năng tưới máu cơ tim khi gắng sức cho thấy lưu lượng máu đến tim giảm, theo một nghiên cứu nhỏ được công bố trên tạp chí Heart.
Đau thắt ngực là một cơn đau ngực tạm thời do giảm lưu lượng máu đến tim. Nó đã được mô Tả như là một cảm giác căng, nặng, tê, nóng hoặc có cảm giác đè nặng tại vị trí sau xương ức. Nó có thể lan đến cánh tay, cổ và hàm, và thường được khởi phát sau các hoạt động thể lực như tập thể dục hoặc căng thẳng.
Các cơn đau thắt ngực thường kéo dài dưới năm phút, nhưng có thể kéo dài từ 30 giây đến 30 phút. Cơn đau thắt ngực không phải lúc nào cũng gây nên nhồi máu cơ tim, nhưng đau thắt ngực có thể tiến triển thành nhồi máu cơ tim và cần có sự chú ý của bác sĩ - đặc biệt là nếu các cơn đau xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài hơn hoặc do các hoạt động ít gắng sức hơn bình thường. Các bác sĩ có thể kiểm tra chứng đau thắt ngực bằng cách cho bệnh nhân thực hiện các test đánh giá gắng sức, sau đó theo dõi lượng máu đến cơ tim có đủ không.
Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng phụ nữ có độ tuổi trung bình 39 tuổi, mắc bệnh tim, đau ngực và đã có kết quả dương tính với lưu lượng máu thấp trong các bài kiểm tra gắng sức. Các nghiên cứu viên thử nghiệm kiểm tra gắng sức với máy chạy bộ hàng tuần trong bốn tuần, cùng một thời điểm trong ngày. Các nhà nghiên cứu cũng đo nồng độ estrogen và progesterone của phụ nữ.
Các kết quả cho thấy trong tuần có xuất hiện hoặc ngay sau khi có kinh nguyệt, khi mức estrogen và progesterone thấp nhất. Hiệu suất của các bài kiểm tra gắng sức này là thấp nhất giữa các lần kiểm tra, so với giai đoạn trước khi có kinh nguyệt, khi nồng độ hormone Estradiol cao nhất.
Cũng trong giai đoạn này, thời gian xuất hiện dấu hiệu đau thắt ngực từ lúc bắt đầu bài tập thể dục ngắn hơn khi so với những giai đoạn trước chu kỳ kinh nguyệt (thời điểm cả hai mức estradiol và progesterone đều cao). Các nhà nghiên cứu cho biết mức độ progesterone dường như không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến những những nguy cơ tim mạch.
Vì vậy, đối với những bệnh nhân có nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch, đặc biệt là ở nữ giới ở độ tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh cần được thăm khám đánh giá chức năng tim mạch định kỳ. Những đối tượng này có nồng độ hormone sinh dục bắt đầu suy giảm cũng như có hiện tượng lão hóa của các cơ quan của hệ tuần hoàn. Bác sĩ cần kiểm tra và phát hiện các bệnh lý tim mạch kịp thời nhằm đưa ra các phương pháp điều trị đúng và hiệu quả. Nhằm nâng cao tuổi thọ và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Tổng hợp theo: vinmec.com