Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

Hướng dẫn cách xem các chỉ số xét nghiệm gan

04/11/2020
Hướng dẫn cách xem các chỉ số xét nghiệm gan

Các xét nghiệm chức năng gan giúp xác định sức khỏe của gan bằng cách đo nồng độ protein, men gan và bilirubin trong máu. Do đó chúng ta nên tìm hiểu xem các chỉ số xét nghiệm gan bao gồm những gì? và cách đọc kết quả như thế nào?

1. Xét nghiệm chức năng gan là gì?

Các xét nghiệm chức năng gan giúp bác sĩ kiểm tra chức năng của gan và phát hiện các tổn thương gan. Những xét nghiệm máu này đo nồng độ protein và enzyme trong máu của bạn.

Xét nghiệm chức năng gan thường được khuyến nghị trong các tình huống sau:

  • Kiểm tra thiệt hại do nhiễm trùng gan, như Viêm gan B và viêm gan C
  • Theo dõi tác dụng phụ của một số loại thuốc được biết là ảnh hưởng đến gan
  • Tiền sử bệnh gan, để theo dõi bệnh và cách điều trị đặc biệt hiệu quả
  • Người bệnh gặp các triệu chứng rối loạn gan
  • Người bệnh có điều kiện y tế như triglyceride cao, tiểu đường , Huyết áp cao hoặc thiếu máu
  • Uống rượu nhiều
  • Bệnh túi mật

Hướng dẫn cách xem các chỉ số xét nghiệm gan - ảnh 1

2. Một số xét nghiệm chức năng gan phổ biến

Một số xét nghiệm chức năng gan thành các nhóm như sau:

  • Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng Hoại tử gan.
  • Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc.
  • Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng tổng hợp.
  • Xét nghiệm chỉ số Bilirubin
  • Xét nghiệm các chỉ số men gan
  • Xét nghiệm tiểu cầu
  • Xét nghiệm phân tích nước tiểu

2.1 Nhóm xét nghiệm đánh giá tình trạng Hoại tử tế bào gan

  • AST (Aspartate aminotransferase) hiện diện ở cơ tim và cơ vân nhiều hơn ở gan. Ngoài ra, AST còn có ở thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu. Bình thường AST < 40 UI/L.
  • ALT (Alanine aminotransferase) hiện diện chủ yếu ở bào tương của tế bào gan cho nên sự tăng ALT nhạy và đặc hiệu hơn AST trong các bệnh gan. Bình thường ALT < 40 UI/L.

Các transaminase tăng trong hầu hết các bệnh về gan nhưng không hoàn toàn đặc hiệu cho gan vì còn tăng trong các bệnh khác như nhồi máu cơ tim, tổn thương cơ vân (viêm cơ, loạn dưỡng cơ), Cường giáp hoặc nhược giáp, bệnh celiac... Ngược lại, các enzyme này có thể bị giảm giả tạo khi có tăng urê máu.

Các mức tăng transaminase có liên quan đến một số bệnh gan như sau:

  • Tăng cao (> 3000 UI/L) có thể gặp trong các trường hợp hoại tử tế bào gan như viêm gan virus cấp hoặc mạn tính, tổn thương gan do thuốc, độc chất, trụy mạch kéo dài
  • Tăng vừa (< 300 UI/L) gặp trong viêm gan do rượu. Transaminase tăng chủ yếu là AST nhưng trị số không quá 2-10 lần giới hạn trên mức bình thường.
  • Tăng nhẹ (< 100 UI/L) có thể gặp trong viêm gan virus cấp, nhẹ và bệnh gan mạn tính khu trú hay lan tỏa (xơ gan, viêm gan mạn, di căn gan), tình trạng tắc mật hoặc gan nhiễm mỡ. Đối với vàng da tắc mật, đặc biệt là sỏi ống mật chủ, ALT thường tăng < 500 UI/l.
  • Lactate dehydrogenase (LDH) Là xét nghiệm không chuyên biệt cho gan vì men này có ở khắp các mô trong cơ thể (tim, cơ, xương, thận, hồng cầu, tiểu cầu, hạch bạch huyết). LDH tăng cao và thoáng qua gặp trong hoại tử tế bào gan, sốc gan. Tăng LDH kéo dài kèm tăng ALP gợi ý đến các tổn thương thâm nhiễm ác tính ở gan.
  • Tỷ số ALT/LDH có thể giúp phân biệt viêm gan virus cấp (ALT/LDH >1,5) với tình trạng sốc gan hoặc Ngộ độc acetaminophen (ALT/LDH <1,5).
  • Ferritin: là một loại protein dự trữ sắt ở trong tế bào, giữ nhiệm vụ điều chỉnh sự hấp thu sắt ở đường tiêu hóa tùy theo nhu cầu của cơ thể.

Bình thường, ferritin ở nam 100-300 mg/L, ở nữ 50-200 mg/L. Giảm ferritin gặp trong ăn thiếu chất sắt, thiếu máu thiếu sắt, ăn chay trường, xuất huyết rỉ rả, thiếu máu tán huyết mạn, người cho máu thường xuyên, chạy thận nhân tạo. Tăng ferritin còn gặp trong bệnh ứ sắt mô, bệnh ung thư (gan, phổi, tụy, vú, thận), bệnh huyết học (bệnh Hodgkin, bạch cầu cấp), hội chứng viêm và nhiễm trùng, bệnh thể keo (collagenosis), ngộ độc rượu, thiếu máu tán huyết, thalassemia...

2.2 Nhóm xét nghiệm khảo sát chức năng bài tiết và khử độc

Bilirubin là sản phẩm chuyển hóa của hemoglobin và các enzym có chứa hem. 95% bilirubin được tạo ra từ sự thoái biến của hồng cầu gồm hai thành phần là bilirubin gián tiếp (GT) và bilirubin trực tiếp (TT). Bình thường: bilirubin toàn phần (TP): 0,8–1,2 mg/dL (5-17 mmol/L), bilirubin GT 0,6 – 0,8 mg/dL, bilirubin TT 0,2 – 0,4 mg/dL (chiếm 30% bilirubin TP). Vàng da chỉ biểu hiện trên lâm sàng khi bilirubin TP tăng > 2,5 mg/dL.

Tăng bilirubin GT (thuờng < 15 mg/dL): có thể do tăng sản xuất bilirubin (tán huyết, tạo hồng cầu không hiệu quả, tái hấp thu từ khối máu tụ) hoặc do giảm sự bắt giữ bilirubin tại tế bào gan (hội chứng Gilbert).

Tăng bilirubin TT: có liên quan đến bệnh lý gan mật, có thể do giảm bài tiết bilirubin vào tiểu quản mật hoặc do ứ mật trong gan hay ngoài gan.

Bilirubin niệu

Chỉ hiện diện ở dạng bilirubin TT. Khi có bilirubin niệu, chắc chắn có vấn đề về gan mật. Bilirubin niệu được phát hiện nhanh chóng nhờ que nhúng. Kết quả có thể dương tính trước khi có vàng da rõ trên lâm sàng nhưng đến khi bệnh nhân hết vàng da, bilirubin niệu trở về âm tính trước khi giảm bilirubin huyết.

Urobilinogen

Là chất chuyển hóa của bilirubin tại ruột, được tái hấp thu vào máu theo chu trình ruột - gan và sau đó cũng được bài tiết qua nước tiểu. Trong trường hợp tắc mật hoàn toàn, sẽ không có urobilinogen trong nước tiểu. Urobilinogen tăng trong nước tiểu gặp trong trường hợp tán huyết (tăng sản xuất), xuất huyết tiêu hóa hoặc bệnh lý gan. Bình thường urobilinogen 0,2 - 1,2 đơn vị (phương pháp Watson).

Phosphatase kiềm (alkaline phosphatase, ALP)

ALP là enzym thủy phân các ester phosphat trong môi trường kiềm (pH = 9). Nguồn gốc chủ yếu của ALP là ở gan và xương. Ở ruột, thận và nhau thai thì ít hơn. Bình thường ALP 25 - 85 U/L hoặc 1,4 - 4,5 đơn vị Bodansky.

ALP tăng nhẹ và vừa (hai lần bình thường) có thể gặp trong viêm gan, xơ gan, di căn hoặc thâm nhiễm ở gan (bệnh bạch cầu, lymphoma, sarcoidosis). ALP tăng cao (3-10 lần bình thường) thường do tắc mật trong hoặc ngoài gan.

5’ Nucleotidase (5NT)

Đây là một ALP tương đối chuyên biệt cho gan, giúp xác định tình trạng tăng ALP là do gan hay do xương hoặc do các trạng thái sinh lý như trẻ em đang tuổi tăng trưởng hoặc phụ nữ có thai. Sự tăng 5NT có tương quan với mức tăng ALP. Bình thường 5NT 0,3 - 2,6 đơn vị Bodansky/dL

-g-glutamyl transferase , g-glutamyl transpeptidase (GGT, g-GT)

Bình thường GGT # 30 U/L ở nữ và # 50 U/L ở nam. Nguyên nhân thường gặp nhất là tình trạng Nghiện rượu mạn tính, tắc mật, sau uống một số thuốc gây cảm ứng enzym ở gan (acetaminophen, phenytoin) và một số trường hợp gan nhiễm mỡ không do rượu. Ngoài ra còn tăng trong suy thận, nhồi máu cơ tim, viêm tụy cấp, đái tháo đường, cường giáp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Amoniac máu (NH3)

NH3 được sản xuất từ chuyển hóa bình thường của protein trong cơ thể và do vi khuẩn sống ở đại tràng. Gan giữ nhiệm vụ khử độc NH3 bằng cách chuyển thành urê để thải qua thận.

Bình thường NH3 máu 5-69 mg/dL. NH3 tăng trong các bệnh gan cấp và mạn tính. NH3 máu không phải là xét nghiệm đáng tin cậy để chẩn đoán bệnh Não do gan. NH3 có thể trở về bình thường khoảng 48 - 72 giờ trước khi có cải thiện tình trạng thần kinh.

 

2.3 Nhóm xét nghiệm chức năng tổng hợp

Phần lớn các protein huyết tương được tổng hợp từ gan.

Albumin huyết thanh

Gan là nơi duy nhất tổng hợp albumin cho cơ thể. Albumin duy trì áp lực keo trong lòng mạch và là chất vận chuyển các chất trong máu đặc biệt là thuốc. Bình thường albumin 35 -55 g/L. Lượng albumin máu chỉ giảm trong các bệnh gan mạn tính (xơ gan) hoặc khi tổn thương gan rất nặng. Ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng, lượng albumin giảm còn do bị thoát vào trong dịch báng. Ngoài ra còn gặp trong suy dinh dưỡng hoặc bị mất albumin bất thường qua đường tiểu (hội chứng thận hư) hoặc qua đường tiêu hóa (viêm đại tràng mạn).

Globulin huyết thanh

Được sản xuất từ nhiều nơi khác nhau trong cơ thể, bao gồm nhiều loại protein vận chuyển các chất trong máu và các kháng thể tham gia hệ thống miễn dịch thể dịch. Bình thường Globulin 20 – 35 g/L.

Trong xơ gan globulin tăng cao. Ngoài ra, kiểu tăng của các loại Globulin cũng có thể gợi ý đến một số bệnh gan đặc biệt, ví dụ IgG tăng trong viêm gan tự miễn, IgM tăng trong xơ gan ứ mật nguyên phát.

Thời gian Prothrombin (PT)

Là thời gian chuyển prothrombin thành thrombin khi có sự hiện diện của thromboplastin và Ca++ cùng các yếu tố đông máu. Để chuẩn hóa kết quả PT, người ta thường chuyển đổi thành INR (International Normalized Ratio). Bình thường INR = 0,8-1,2.

Khi PT kéo dài thường là dấu hiệu tiên lượng nặng. Thiếu vitamin K do tắc mật kéo dài hay rối loạn hấp thu mỡ (tiêu chảy mỡ, viêm tụy mạn) cũng làm PT kéo dài nhưng khi tiêm 10 mg vitamin K, PT sẽ trở về ít nhất 30% mức bình thường trong vòng 24 giờ (nghiệm pháp Kohler). Trước khi phẫu thuật hoặc làm sinh thiết gan, phải kiểm tra chức năng đông máu.

Ngoài ra, còn có gói sàng lọc gan mật toàn diện còn giúp khách hàng:

  • Đánh giá khả năng làm việc của gan thông qua các xét nghiệm men gan.
  • Tầm soát sớm ung thư gan.
  • Thực hiện các xét nghiệm như tổng phân tích tế bào máu, khả năng đông máu, sàng lọc viêm gan B,C.
  • Đánh giá trạng thái gan mật qua hình ảnh siêu âm và các bệnh có nguy cơ ảnh hưởng gây ra bệnh gan/làm bệnh gan nặng hơn
  • Phân tích sâu các thông số đánh giá chức năng gan mật thông qua xét nghiệm, cận lâm sàng; các nguy cơ ảnh hưởng đến gan và tầm soát sớm ung thư gan mật.

2.4. Xét nghiệm chỉ số Bilirubin

Khi thực hiện xét nghiệm, bạn không thể bỏ qua việc xét nghiệm chỉ số bilirubin. Đây là chỉ số thể hiện mức độ tổn thương của lá gan. Trong quá trình tái tạo hồng cầu già, sắc tố hemoglobin sẽ chuyển hóa thành bilirubin. Khi lượng chất này trong cơ thể cao hơn mức bình thường thì biểu hiện phổ biến thường là vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng.

2.5. Xét nghiệm các chỉ số men gan

Xét nghiệm các chỉ số men gan được thực hiện và đo lường thông qua các chỉ số như ALP, ALT, AST, GGT để giúp bác sĩ nắm được tình trạng sức khỏe hiện tại của gan.

  • Chỉ số AST (Aspartate Transaminase) là enzyme có chủ yếu ở tế bào cơ tim, cơ vân và tế bào gan. Ngoài ra còn thấy ở thận, não, tụy, phổi, hồng cầu, bạch cầu. Thông thường, chỉ số AST sẽ
  • GGT (Gamma - glutamytransferase) là một loại enzyme có trong gan, ngoài ra còn có ở thận, tụy, lách, ruột non. Chỉ số GGT ở người bình thường là 20 - 40 UI/L. Chỉ số này có thể phản ánh tình trạng tổn thương ở gan như bệnh lý gan do rượu, viêm gan virus, ung thư di căn gan,... hoặc ống mật, ví dụ như tắc ống mật.
  • Chỉ số ALP (Alkaline Phosphatase) là một loại enzyme trong gan giúp chuyển hóa protein. Chỉ số ALP an toàn tùy thuộc độ tuổi, nhóm máu và giới tính, khi chỉ số ALP vượt quá giới hạn cho phép đồng nghĩa với việc lá gan của bạn hoặc có thể là hệ xương, tim mạch đang bị tổn thương. Đồng thời đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng, bệnh truyền nhiễm hay khối u thận.
  • Chỉ số ALT (Alanine Transaminase) là một loại enzyme có thể được tìm thấy chủ yếu trong tế bào gan, ngoài ra còn ở tim, thận, cơ xương. Nồng độ bình thường là

2.6. Xét nghiệm tiểu cầu

Cũng được coi là một trong những xét nghiệm quan trọng không thể bỏ qua, xét nghiệm tiểu cầu nhằm xác định tình trạng đông máu, đồng thời đo lường lượng protein hỗ trợ đông máu. Đối với người bình thường, lượng tiểu cầu có trong máu sẽ rơi vào khoảng 150 - 450 x 103/microlit. Do đó, nếu bệnh nhân bị suy chức năng gan thì lượng tiểu cầu sẽ thấp hơn.

2.7. Xét nghiệm phân tích nước tiểu

Để phát hiện những bệnh lý gây nên những tổn thương và biến đổi chuyển hóa đang diễn ra trong cơ thể, người bệnh cần tiến hành xét nghiệm phân tích nước tiểu. Loại xét nghiệm này có thể giúp xác định các bệnh viêm gan, thận hay đái tháo đường,...

3. Những lưu ý khi tiến hành xét nghiệm chức năng gan

Trước khi tiến hành xét nghiệm, người bệnh cần lưu ý một số điều để có thể có được kết quả chính xác nhất.

Thông thường thời điểm làm xét nghiệm chức năng gan tốt nhất là vào buổi sáng sớm. Đồng thời, bạn sẽ được yêu cầu nhịn ăn ít nhất 6 tiếng trước khi làm xét nghiệm vì đó là lúc các thành phần sinh hóa tương đối ổn định và không bị ảnh hưởng hay sai lệch do mỡ máu tăng cao. Hay nói cách khác, các loại thức ăn chứa protein và chất béo có khả năng làm thay đổi các chỉ số tạm thời dẫn đến kết quả không đúng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc chẩn đoán bệnh của bác sĩ.

Ngoài ra, các loại chất kích thích hay đồ uống có cồn đều tuyệt đối không được sử dụng ít nhất 6 giờ trước khi làm xét nghiệm.

Trước khi xét nghiệm, người bệnh cũng cần thông báo với bác sĩ về các loại thuốc hay kháng sinh đang sử dụng để có được lời khuyên cũng như sự tư vấn tốt nhất.

Mọi thắc mắc các bạn có thể đặt câu hỏi bác sĩ, phòng khám và bệnh viện trên nền tảng bcare.vn để được giải đáp

Đặt lịch khám bác sĩ gan mật Hà Nội tại bcare.vn