1. Bệnh tâm thần là gì?
Bệnh tâm thần là tình trạng sức khỏe tinh thần có liên quan đến những thay đổi về suy nghĩ, cảm xúc và hành vi. Tình trạng này có mối mật thiết với những vấn đề trong các hoạt động xã hội, công việc và gia đình. Bệnh tâm thần được phân ra thành nhiều loại khác nhau. Theo bảng phân loại bệnh quốc tế về các rối loạn tâm thần và hành vi do Tổ chức y tế thế giới, hiện nay có hơn 300 các loại rối loạn thâm thần ví dụ như: tâm thần phân liệt, rối Loạn tâm thần do sử dụng rượu hay ma túy, sa sút tâm thần, rối Loạn tâm thần sau Chấn thương sọ Não hoặc viêm não, rối loạn hoang tưởng, rối loạn khí sắc, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn lo âu, chứng ngủ nhiều, mất ngủ, mộng du, ác mộng,...
Theo thống kê của Viện sức khỏe tâm thần Trung ương thì tỷ lệ người Việt Nam có khả năng mắc bệnh tâm thần một lần trong đời lên tới 15-20%. Một số nguyên nhân thường gặp của bệnh tâm thần như:
- Nguyên nhân thực thểNguyên nhân tâm lý: Áp lực công việc, học tập,...
- Do tổn thương trực tiếp tại não: Viêm não, viêm màng não,...
- Nhiễm độc thần kinh do thuốc ngủ, do rượu
- Chấn thương sọ não
- Những bệnh ở não:U não, tai biến mạch máu não, áp xe não,...
- Những bệnh ảnh hưởng đến hoạt động của não: cường giáp, nhược giáp, Suy thận mãn tính,...
- Cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý
- Bệnh tâm thần nội sinh không rõ nguyên nhân: Rối loạn khí sắc, tâm thần phân liệt,...
Những dấu hiệu cảnh báo bệnh tâm thần:
- Thay đổi tánh tình rõ rệt
- Không có khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống hằng ngày
- Có các ý tưởng tự cao hay xa lạ
- Lo âu quá mức và kéo dài
- Buồn bã kéo dài
- Thay đổi rõ rệt trong cách ngủ và ăn uống
- Nghĩ đến hay nói về vấn đề tự tử
- Cảm xúc thay đổi quá nhanh từ hưng phấn sang buồn nản và ngược lại
- Nghiện rượu hay ma túy
- Giận dữ quá mức , thù địch hay hành vi bạo lực
2.Các loại bệnh tâm thần thường gặp
2.1 Tâm thần phân liệt
Bệnh tâm thần phân liệt là một trong những loại bệnh tâm thần nặng, tỷ lệ mắc bệnh là 1/100. Bệnh thường xuất hiện khi còn trẻ và có thể kéo dài hết cả cuộc đời. Bệnh tâm thần phân liệt có thể biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần, nếu bệnh kéo dài không thuyên giảm có thể làm thay đổi nhân cách của bệnh nhân.
Những triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân tâm thần phân liệt bao gồm:
- Hoang tưởng
- Ảo thanh
- Rối loạn khả năng suy nghĩ
- Giảm sự biểu lộ tình cảm và cách ly xã hội
Những triệu chứng cấp tính có thể khởi phát nhanh và xuất hiện trong vài tuần, sau đó chậm dần trong nhiều tháng nhiều năm. Bệnh nhân trong thời gian bị bệnh thường trở nên xa lánh mọi người, ít nói chuyện với những người thân và trở lên trầm tư, lo lắng, sợ hãi,...
2.2 Rối loạn trầm cảm
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, xuất hiện với nhiều triệu chứng và hay gặp nhất đó là sự buồn bã một cách sâu sắc. Một số triệu chứng khác bao gồm:
- Sụt cân
- Mất ngủ
- Dễ tức giận
- Khó khăn khi suy nghĩ
- Mất tập trung
- Cảm thấy tội lỗi, vô giá trị
Người mắc chứng trầm cảm luôn cảm thấy mất hy vọng, mệt mỏi, không có gì khiến bệnh nhân hứng thú và thường suy nghĩ đến cái chết. Bệnh trầm cảm có thể gặp ở mọi lứa tuổi từ 24-44 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh vào một thời điểm nào đó trong cuộc sống ở nữ giới là 25% và nam giới là 10%
2.3 Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn mà cảm xúc của người bệnh thường thay đổi từ giai đoạn trầm cảm sang hưng phấn hoặc ngược lại. Cũng có những lúc khí sắc bệnh nhân bình thường. Những triệu chứng trong giai đoạn trầm cảm giống với chứng rối loạn trầm cảm. Đối với giai đoạn hưng phấn, người bệnh thường vui vẻ quá mức, cảm giác mình là nhất, tăng hoạt động và hoang tưởng tự cao. Những hành vi nguy cơ cao như tiêu tiền hoang phí, lái xe không cẩn thận,... không kiểm soát được những hành động, nhịp độ suy nghĩ hoặc nói chuyện và dễ lên cơn giận dữ bất ngờ.
2.4 Bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer là một loại bệnh tiến triển ngày càng nặng dần với đặc điểm là sự hủy diệt từ từ các tế bào thần kinh trong não. Bệnh hiếm khi xuất hiện trước 65 tuổi và tuổi càng cao thì nguy cơ bị mắc bệnh ngày càng tăng.
Bệnh alzheimer khởi phát chậm và sẽ dần trở nên nặng hơn. Những triệu chứng ban đầu xuất hiện là thay đổi tính cách và giảm trí nhớ. Bệnh nhân dễ tức giận, lo âu và mệt mỏi. Thường xuyên quên vị trí đồ dùng và mất thời gian tìm kiếm chúng, dễ lạc đường. Sự suy giảm trí nhớ ở bệnh Alzheimer khác với sự giảm trí nhớ ở người cao tuổi. Dần dần trí nhớ ở bệnh nhân ngày cảm giảm sút hơn, thậm chí quên tên bạn thân, quên tên đồ vật, không hiểu con số, chữ khi đọc hóa đơn, đọc báo, cũng như không thể viết được. Do vậy, bệnh nhân sẽ khó hòa nhập với môi trường xã hội và thường nổi giận vô cớ, ăn mặc không phù hợp hoàn cảnh.
Cuối cùng người bệnh trở nên lú lẫn, không biết ngày tháng năm, không nói được tên địa danh nơi họ đang sống, nếu đi ra khỏi nhà thì thường hay đi lang thang và không tìm được đường về, đêm khó ngủ, không thể nói chuyện mạch lạc với người chung quanh, quên tên và không nhận ra con cái, không thể tự làm những việc cơ bản hằng ngày như tắm rửa, ăn uống, làm vệ sinh cá nhân. Lúc này người thân sẽ phải chăm sóc bệnh nhân về mọi mặt và trong mọi lúc.
Khoảng 30% bệnh nhân có ảo giác và 30% bệnh nhân có hoang tưởng. 40 - 50% bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm và lo âu. Diễn tiến bệnh sẽ trở nên nặng hơn một cách từ từ. Thời gian sống trung bình của người bệnh từ lúc phát bệnh đến lúc mất thường là từ 8 – 10 năm. Bệnh nhân thường mất vì suy kiệt hoặc do các bệnh lý phối hợp như viêm phổi, bệnh tim mạch...
2.5 Chứng chán ăn tâm thần
Chán ăn tâm thần là một loại rối loạn tâm thần được thể hiện dưới dạng rối loạn ăn uống. Bệnh có đặc điểm là bệnh nhân từ chối duy trì một trọng lượng cơ thể bình thường tối thiểu, rất sợ tăng cân và có nhận thức sai lầm về trọng lượng hay hình dáng cơ thể bản thân.
Chứng Chán ăn tâm thần thường xảy ra ở nữ giới với tỷ lệ gấp 10-20 lần so với nam giới. Tỷ lệ mắc bệnh càng cao đối với những người có nghề nghiệp như người mẫu, diễn viên. Bệnh thường khởi phát trong thời gian từ 13-20 tuổi. Nếu không được can thiệp, chứng Chán ăn tâm thần có thể gây tử vong. Chủ yếu do hậu quả của sự suy dinh dưỡng hoặc tự tử. Tỷ lệ tử vong trong số các bệnh nhân phải nhập viện là > 10%.
Những triệu chứng thường gặp ở chứng chán ăn tâm thần như:
- Sợ tăng cân
- Nhận thức sai về trọng lượng, hình dáng cơ thể: luôn cảm thấy mập, sơ biến dạng cơ thể,...
- Không duy trì trọng lượng cơ thể ở mức bình thường.
Giảm cân quá mức sẽ gây ra những hậu quả kèm theo như:
- Suy kiệt: teo các bắp cơ, không còn lớp mỡ dưới da
- Dễ bị lạnh
- Tim mạch: Nhịp tim chậm, huyết áp thấp, thiếu máu,...
- Tiêu hoá: cảm giác đầy bụng, táo bón, đau bụng
- Nội tiết: Mất kinh nguyệt, tóc khô và dễ gãy, da khô
- Hệ xương khớp: loãng xương
2.6 Rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là một loại rối loạn lo âu có thể xuất hiện ở bất kỳ độ tuổi nào nhưng chủ yếu bắt đầu trong thời kỳ thơ ấu. Bệnh gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống gia đình, xã hội và công việc hay vấn đề học tập của người bệnh. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế có triệu chứng ám ảnh hoặc xung động, một số trường hợp có thể bị cả hai triệu chứng cùng lúc.
- Ám ảnh: Là các ý nghĩ xuất hiện ngoài ý muốn, lặp đi lặp lại và xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ của bệnh nhân. Điều này khiến cho họ luôn cảm thấy lo âu hoặc bực bội. Ví dụ như bệnh nhân có thể có ý nghĩa là tất cả các vi sinh vật, bụi trong không khí có thể gây bệnh. Vì vậy họ rất sợ hãi và lo lắng khi phải đi ra khỏi nhà. Hoặc bệnh nhân luôn nghi ngờ không biết mình đã đóng các cửa sổ và khoá các cửa cái chưa khi đi ra ngoài dù trước đó đã kiểm tra rất cẩn thận.
- Xung động: Là nhu cầu thúc giục cần phải làm một điều gì đó, thường nhằm mục đích giảm sự lo âu do ám ảnh gây ra. Hành vi xung động thường có tính chất lặp lại nhiều lần, luôn tuân theo một thứ tự nào đó và thường là hành vi có ý thức.
Ám ảnh và xung động đều có nét chung đó là bệnh nhân hiểu rất rõ những điều đó là vô lý và thái quá, họ cũng rất muốn chống lại nhưng lại không thể làm khác đi được. Họ luôn cảm thấy xấu hổ và giấu tất cả mọi người xung quanh về những triệu chứng trên. Tuy nhiên khi bệnh diễn biến nặng thì mọi người xung quanh sẽ nhận ra và khuyên họ đi điều trị.
2.7 Rối loạn ám sợ
Rối loạn ám sợ là toàn bộ các phản ứng tâm lý và cơ thể do một đối tượng hay hoàn cảnh gây sợ gây ra. Đối tượng gây sợ có thể là một con vật cụ thể như rắn, nhện, côn trùng,... hoặc là một hoàn cảnh xã hội như khi phải nói chuyện trước đám đông, khi trong thang máy, khi đi trên máy bay hoặc trong xe bus,... Rối loạn ám sợ làm cho bệnh nhân sợ hãi và tránh những công việc có thể gây ra phản ứng sợ hãi, dẫn tới hậu quả làm giảm hiệu suất trong công việc và các mối quan hệ xã hội.
Những đặc điểm của chứng rối loạn ám sợ bao gồm:
- Cảm thấy một nỗi sợ hãi xảy ra bất ngờ
- Sợ khi đang ở trong một tình huống không gây hại.
Phản ứng sợ hãi xuất hiện đều là tự động và không thể kiểm soát được. Bệnh nhân hoàn toàn nhận thức rằng nỗi sợ hãi này là quá mức và vô lý.
Ngoài ra, các phản ứng cơ thể sẽ xuất hiện kèm theo như:
- Nhịp tim nhanh
- Thở hụt hơi hoặc cảm giác nghẹt thở
- Run rẩy
- Toát mồ hôi
- Buồn nôn
- Cảm giác khó chịu trong bụng
- Chóng mặt
Bệnh nhân luôn mong muốn thoát ra khỏi tình huống này. Sau khi thoát khỏi đối tượng hay tình huống gây sợ bệnh nhân sẽ tìm cách tránh né chúng. Khi đó sự tránh né này sẽ gây ảnh hưởng đến hiệu suất công việc hoặc các mối quan hệ xã hội. Vì vậy bệnh nhân cần phải được khám tâm thần và điều trị.
2.8 Rối loạn lo âu lan tỏa
Rối loạn lo âu lan tỏa có đặc điểm là bệnh nhân luôn cảm thấy lo âu và căng thẳng quá mức hoặc không thực tế về những vấn đề trong cuộc sống. Bệnh nhân luôn cảm thấy lo sợ như: sợ hết tiền, sợ mình hoặc người thân sắp bị bệnh, bị tai nạn hay gặp chuyện không may. Ngoài ra bệnh nhân thường có cảm giác căng thẳng, bồn chồn, bất an, run, nhức đầu, dễ mệt mỏi, khó tập trung chú ý, khó ngủ,...
Đa số bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa thường kết hợp với những rối loạn tâm thần khác. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao hơn nam giới gấp 2 lần. Thường chỉ có 1/3 trường hợp đi khám chuyên khoa tâm thần, số còn lại điều trị ở các bác sĩ đa khoa, tim mạch,...
2.9 Rối loạn tâm thần do rượu hay ma túy
Rối loạn tâm thần do rượu, ma túy là hậu quả của việc làm dụng rượu và các chất gây nghiện. Hiện nay, vấn đề này đang ngày càng nổi bật và khó giải quyết. Những người lạm dụng rượu, ma túy hay các chất gây nghiện khác thường không kiểm soát được hành vi, và họ sẽ cần dùng liên tục mỗi ngày với liều lượng ngày càng cao. Nếu không sử dụng thì những bệnh nhân này thường không thể làm việc bình thường, kèm theo đó là xuất hiện những triệu chứng khác như:
- Do rượu: Mạch nhanh, đổ mồ hôi, run tay, kích động, lo âu và co giật,...
- Do ma túy: Nôn, chảy nước mắt, nước mũi, dựng lông, đau nhức bắp thịt, toát mồ hôi, tiêu chảy, ngáp, giãn đồng tử,...
Khi cho họ sử dụng trở lại rượu hay các chất gây nghiện thì những triệu chứng này sẽ biến mất. Khi thời gian sử dụng lâu, họ có thể mắc thêm nhiều loại rối loạn tâm thần khác như:
- Sa sút tâm thần
- Rối loạn trí nhớ
- Loạn thần
- Rối loạn khí sắc
- Rối loạn lo âu
- Rối loạn giấc ngủ
Những đối tượng sử dụng rượu và các chất gây nghiện cần được điều trị tại cơ sở chuyên khoa. Việc điều trị cắt cơn tương đối dễ . Tuy nhiên việc điều trị phòng ngừa chống tái phát là một quá trình rất khó khăn.
2.10 Chậm phát triển trí tuệ
Chậm phát triển trí tuệ là một tình trạng bệnh lý với đặc điểm là khả năng trí tuệ chung của bệnh nhân thấp hơn mức bình thường một cách rõ rệt. Cùng với đó là giảm khả năng thích nghi như khả năng tự lập, khả năng thực hiện các trách nhiệm của xã hội tương ứng với độ tuổi. Chậm phát triển trí tuệ khởi phát bệnh trước tuổi 18. Nguyên nhân dẫn tới chậm phát triển trí tuệ rất đa dạng như di truyền, mẹ bị nhiễm trùng hoặc suy dinh dưỡng khi mang thai, sinh non, sinh hút hoặc trẻ bị ngạt lúc sinh, viêm màng não, viêm não, hay sốt cao co giật nhiều lần khi trẻ còn bé...
Khả năng trí tuệ chung được xác định bằng các thang đo lường trí tuệ , kết quả là thương số thông minh (IQ) có giá trị trung bình là 100. Nếu kết quả cho ra chỉ số IQ nhỏ hơn 70 thì có thể được xem như chậm phát triển trí tuệ. Chậm phát triển trí tuệ được chia ra thành 4 mức độ:
- Nhẹ: IQ từ 50 – 69, chiếm 85% các trường hợp
- Trung bình: IQ từ 35 – 49, chiếm 10% các trường hợp
- Nặng: IQ từ 20 – 34, chiếm 3 - 4% các trường hợp
- Nghiêm trọng: IQ thấp hơn 20, chiếm 1 -2% các trường hợp.
Tình trạng bệnh diễn tiến mãn tính, và không có giai đoạn thuyên giảm. Tuy nhiên khả năng thích nghi của trẻ có thể được cải thiện nếu trẻ được đi học tại các trường đặc biệt dành cho trẻ chậm phát triển trí tuệ và điều trị tốt các tình trạng bệnh lý kèm theo như động kinh.
3. Điều trị bệnh tâm thần
Nguyên tắc chung trong điều trị các loại bệnh tâm thần là phối hợp giữa thuốc và tâm lý liệu pháp. Các loại thuốc điều trị bệnh tâm thần ngày càng mang lại hiệu quả hơn như các loại thuốc chống loạn thần điều trị các triệu chứng hoang tưởng, ảo giác,..
Đối với liệu pháp tâm lý thì hiện nay cũng có rất nhiều phương pháp điều trị bệnh tâm thần như
- Các liệu pháp phân tâm
- Các liệu pháp nhận thức hành vi, ám thị và thư giãn
- Các liệu pháp tâm lý nâng đỡ
Tóm lại, bệnh tâm thần là tình trạng sức khỏe tinh thần có liên quan đến những thay đổi về cảm xúc, tính cách và hành vi. Có đến hơn 300 các loại bệnh tâm thần khác nhau, trong đó những loại bệnh tâm thần thường gặp như trầm cảm, tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực,... Bệnh tâm thần thường được điều trị phối hợp giữa dùng thuốc và liệu pháp tâm lý. Việc điều trị càng sớm sẽ càng mang lại hiệu quả. Do đó, đừng e ngại khi nói ra những khó khăn gặp trong cuộc sống với bác sĩ. Việc biết rõ hoàn cảnh của bệnh nhân có thể giúp bác sĩ biết được tình trạng hiện tại của bệnh nhân và việc đưa ra liệu pháp phù hợp.
4. Bác sĩ khám tâm lý giỏi
- Địa chỉ: Số 458 Phố Minh Khai, Khu đô thị Times City, Hai Bà Trưng, Hà Nội
- Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
- Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Lương Bằng, Nam Sài Gòn (Phú Mỹ Hưng), Quận 7, TP. HCM
- Bệnh viện FV - Bệnh viện Pháp Việt
- Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Lương Bằng, Nam Sài Gòn (Phú Mỹ Hưng), Quận 7, TP. HCM
- Bệnh viện FV - Bệnh viện Pháp Việt