Tên gọi khác: Suy giảm trí nhớ , Chứng mất trí
Triệu chứng
Các triệu chứng thường xuất hiện từ từ và xấu dần đi, bao gồm các vấn đề về trí nhớ, không có khả năng để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, vấn đề ghi nhớ những người, sự thay đổi trong tính cách, vấn đề nói, và thay đổi hành vi.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Các kiểm tra sẽ được thực hiện để loại trừ đột quỵ, nhiễm trùng, khối u não hay vấn đề trao đổi chất.
Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan) và chụp cộng hưởng từ (MRI) giúp chẩn đoán bệnh. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP).
Điều trị
Không có thuốc làm chậm sự tiến triển của bệnh. Một số loại thuốc có thể cải thiện chức năng hàng ngày của bệnh nhân, bao gồm: Donepezil (Aricept), Rivastigmine (Exelon), Galantamine (Reminyl) và Memantine (Namenda). Đơn giản hóa thói quen hàng ngày của bệnh nhân có thể hữu ích. Khi bệnh tiến triển, điều quan trọng là cung cấp hỗ trợ cho bệnh nhân và gia đình thông qua những người chăm sóc và các nhóm hỗ trợ.
Nguyên nhân
Sa sút trí tuệ (Dementia) là mất khả năng về trí lực và giao tiếp xã hội ở mức độ gây khó khăn cho cuộc sống hàng ngày. Sự thoái hóa mô não đang bình thường với nhiều nguyên nhân chưa được biết rõ, gây nên sự suy sụp dần dần trí nhớ và trí tuệ bệnh nhân.
Những ai dễ bị Alzheimer?
Đây là bệnh gây tử vong ở người cao tuổi đứng hàng thứ 4 hiện nay, có khoảng 4 triệu người Mỹ và hơn 8 triệu người trên thế giới mắc bệnh. Những yếu tố sau đây góp phần tăng khả năng mắc bệnh Alzheimer:
Tuổi: là yếu tố nguy cơ lớn nhất, bắt đầu từ tuổi 65 thì mỗi 5 năm lại có gấp đôi số ca bị Alzheimer. Vào tuổi 85 thì có một nửa số người bị bệnh Alzheimer.
Giới tính: phụ nữ dễ bị bệnh hơn nam giới.
Dân tộc: các dân tộc có tần suất mắc bệnh Alzheimer khác nhau. Người da trắng ít mắc bệnh hơn người Mỹ gốc Phi hoặc Tây Ban Nha. Người châu Á cũng ít mắc bệnh hơn nơi khác. Người ta còn cho rằng bệnh chịu ảnh hưởng của yếu tố môi trường, thí dụ người Nhật sống tại Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn hẳn so với người Nhật sống tại Nhật.
Cao huyết áp và tăng cholesterol máu: nhiều nghiên cứu cho thấy người có huyết áp tâm thu cao hoặc tăng cholesterol máu sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.
Hội chứng Down: người bị chứng này sẽ bị Alzheimer khi sống đến 40 tuổi và những bà mẹ sinh con bị Down sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.
Phòng ngừa
1.Yếu tố sinh học của não
Nhờ tiến bộ trong lĩnh vực hình ảnh học, người ta đã phát hiện người bệnh Alzheimer bị mất tế bào thần kinh và giảm thể tích những vùng não chi phối trí nhớ, vùng đảm nhận tâm thần kinh.
Dưới kính hiển vi điện tử, khi xem xét mô não về tế bào học thấy có tổn thương về mặt sinh học, đó là sự thoái hóa của các sợi dây thần kinh, hoặc bị tổn thương chỉ còn là những ống nhỏ ngăn cản vận chuyển chất dinh dưỡng nuôi tế bào thần kinh. Vấn đề này liên quan đến một protein có tên là TAU. Kế đến là sự xuất hiện của một protein gọi là beta Amyloid, chúng không hòa tan nên tích tụ thành những mảng keo.
Ở bệnh nhân Alzheimer, những chất này nằm xung quanh các tế bào thần kinh chết, một loại protein tiền chất Amyloid (Amyloid Precursor Protein, viết tắt là APP) cũng tồn tại ở đây giúp cho hoạt động hủy hoại tế bào thần kinh của beta Amyloid. Sự có mặt quá nhiều của beta Amyloid sẽ làm giảm chất trung gian dẫn truyền thần kinh Acetylcholine cần thiết cho trí nhớ.
Beta Amyloid cũng ngăn chặn sự vận chuyển ion kali, natri, canxi qua màng tế bào (giúp cho quá trình truyền tín hiệu thần kinh). Ngoài ra còn có vai trò của một số chất protein khác như ERAB (Endoplasmic-Reticulum Associated Binding Protein), mảng AMY (giống beta Amyloid), Par-4 (Prostate Apoptosis Response - 4).
2. Sự ôxy hóa và đáp ứng viêm
Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đi sâu tìm hiểu tại sao beta Amyloid lại gây tổn thương não trong bệnh Alzheimer và đã phát hiện ra sự xuất hiện của các gốc ôxy tự do. Sự xuất hiện nhiều chất này sẽ làm tổn thương tế bào thần kinh.
Thật ra, sự xuất hiện các chất ôxy hóa là sản phẩm của hầu hết những phản ứng hóa học trong cơ thể con người nhưng với một lượng dư thừa sẽ gây hại (chất ôxy hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh mạch vành và ung thư). Ngoài ra chất ôxy hóa cũng liên quan với đáp ứng miễn dịch, đó là phản ứng viêm (men Cyclooxygenase và Prostaglandin làm tổn thương tế bào thần kinh).
3.Yếu tố gen
Các gen đóng vai trò gây khởi phát muộn Alzheimer là ApoE2, ApoE3, ApoE4. Còn những đột biến gen PS1, PS2 hoặc gen kiểm soát APP sẽ làm cho bệnh Alzheimer khởi phát sớm hơn.
Giảm hoóc-môn sinh dục nữ
Giảm estrogen sau mãn kinh có liên quan rõ rệt đến giảm trí nhớ và sa sút tâm thần.
4.Yếu tố môi trường
Nhiễm trùng, nhiễm kim loại (người ta phát hiện kẽm, đồng tích tụ trong mô não người bị Alzheimer), môi trường điện từ trường, nhiễm độc...
Một số yếu tố khác đã được xác định có liên quan Alzheimer là homocystein, sự thiếu hụt vitamin nhóm B, trầm cảm, chấn thương đầu, nhóm người có điều kiện kinh tế kém và học vấn thấp...
Điều trị
Sự suy giảm và rối loạn trí nhớ xuất hiện từ độ tuổi trung niên là biểu hiện thường thấy nhất của bệnh Alzheimer. Hãy thực hiện những bí quyết sau từ trẻ để giảm bệnh Alzheimer hữu hiệu khi về già.
1. Uống nước ép rau quả
Các nghiên cứu xuất bản trên tạp chí Medicine (Mỹ) đã chỉ ra rằng những người uống từ 3 khẩu phần nước ép rau quả mỗi tuần trở lên sẽ giảm 76% nguy cơ phát triển các triệu chứng của bệnh Alzheimer so với những người uống nước rau quả ép chưa tới 1 khẩu phần mỗi tuần.
Những người có lượng đường máu cao không thể uống nước ép quả thì nên chuyển sang các loại nước rau ép.Với những người không thích uống nước ép, biện pháp hiệu quả là ăn đủ lượng rau cần thiết.
2. Đảm bảo lượng axít béo omega-3
Nghiên cứu xuất bản trên tạp chí Neuroscience đã chỉ ra rằng chế độ ăn giàu axít béo omega-3 đặc biệt là DHA có thể giảm đáng kể tiến trình của bệnh Alzheimer được thí nghiệm ở chuột.
Các nhà khoa học trên toàn thế giới đã nhất trí rằng việc sử dụng thực phẩm giàu axít béo omega-3 rất cần thiết cho việc phát triển và duy trì hệ thần kinh khoẻ mạnh để đầy lùi bệnh Alzheimer.
Một số thực phẩm giàu axít béo omega-3 như: dầu gan cá, quả óc chó tươi ngâm trong nước vài giờ, rong tảo biển, rau sam, hạt lanh, cá hồi...
3. Duy trì cân nặng hợp lý với chiều cao
Theo các nghiên cứu được trình bày trong Cuộc họp thường niên lần thứ 58 nghiên cứu về Thần kinh ở Mỹ vào tháng 4/2006, thì những người thừa cân ở độ tuổi từ 40 trở lên có nguy cơ bị bệnh Alzheimer cao hơn so với những người có cân nặng vừa phải ở cùng độ tuổi.
Tích cực hoạt động
Các tế bào não cũng giống như các tế bào vùng cơ nên chúng cần được tập luyện đều đặn để giữ sự khoẻ mạnh và săn chắc.Nếu công việc hàng ngày của bạn ít vận động, tập thể dục đều là biện pháp giúp giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và tăng cường sức khoẻ toàn diện.
4. Tránh xa nhôm
Theo Viện Sức khoẻ Quốc tế thì thành phần quan trọng trong hợp chất nhôm có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh gây bệnh Alzheimer.
Những nguồn phổ biến nhôm nên tránh như:
Pho mát và bánh mỳ ngô đã qua chế biến.
Một số loại thuốc như antacid và aspirin buffer.
Các loại nồi xoong bằng nhôm, không nên nấu rau xanh và cà chua trong các đồ nhôm.
Nhôm có trong chất chống chảy nhiều mồ hôi.
5. Tránh xa các nguồn có chứa thuỷ ngân
Các nghiên cứu khoa học vẫn chưa biết chính xác sự liên quan giữa thuỷ ngân và nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, nghiên cứu năm 2001 đăng tải trên tạp chí NeuroReport đã chỉ ra rằng việc xông hít hơi thuỷ ngân có thể gây ảnh hưởng lớn đến hệ thần kinh, gây ra những tổn thương giống biểu hiện ở những người mắc bệnh Alzheimer.
Nguồn thuỷ ngân phổ biến sau nên tránh:
Hỗn hợp hàn răng.
Hải sản, đặc biệt là những loại cá lớn.
Bóng đèn compact, huỳnh quang bị vỡ.