Triệu chứng
Thóp đầu bị phồng Khó ăn Co giật cục bộ (chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó trên cơ thể)
Chẩn đoán
Người bệnh nhập viện sau khi bị chấn thương đầu thường được làm chẩn đoán hình ảnh đầu như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI)
Điều trị
Việc điều trị phụ thuộc vào kết quả khám lâm sàng, triệu chứng, kích thước, vị trí khối máu tụ và khối máu tụ là cấp tính hay mạn tính.
Tổng quan
Tụ máu dưới màng cứng là gì?
Não và tủy sống của con người được bao bọc bởi những lớp màng bảo vệ gọi là màng não. Khi mắc bệnh Tụ máu dưới màng cứng (hay còn gọi là xuất huyết dưới màng cứng), máu hoặc các sản phẩm của máu sẽ bị tích tụ giữa hai lớp màng nhện và màng cứng bên trong não. Bệnh có thể cấp tính (khởi phát nhanh) hoặc mãn tính (tiến triển từ từ). Tụ máu cấp tính hoặc quá lớn có thể gây tăng áp lực nội sọ, dẫn đến chèn ép và tổn thương mô não. Tình trạng này có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Triệu chứng
Những dấu hiệu và triệu chứng tụ máu dưới màng cứng là gì?
Triệu chứng của bệnh Máu tụ dưới màng cứng phụ thuộc vào độ nặng của Chấn thương và kích cỡ, cũng như vị trí của khối máu tụ. Các triệu chứng có thể bắt đầu ngay lập tức hoặc sau một vài tuần kể từ khi chấn thương. Một vài người có vẻ ổn lúc đầu (vẫn tỉnh táo) sau chấn thương. Tuy nhiên, sau đó áp lực trong Não gây ra do khối tụ máu có thể bắt đầu gây ra các triệu chứng như:
Mất ý thức hoặc thay đổi mức độ tỉnh táo
Nôn
Đau đầu
Chóng mặt
Mất khả năng định hướng
Nói ngọng
Mất trí nhớ
Co giật
Thay đổi tính cách
Thở bất thường
Gặp vấn đề khi đi lại
Yếu một bên chi
Tụ máu mãn tính và bán cấp tính thường gây đau đầu, yếu cơ nhẹ, suy nghĩ chậm, phát âm bất thường, gặp vấn đề khi di chuyển và bị lú lẫn.
Nếu bệnh xảy ra ở trẻ sơ sinh, các triệu chứng có thể bao gồm:
Thóp đầu bị phồng
Khó ăn
Co giật cục bộ (chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó trên cơ thể)
Co cứng – co giật toàn bộ cơ thể
Tăng chu vi vòng đầu
Ngủ nhiều hoặc hôn mê
Khó chịu
Khóc thé lên
Nôn mửa kéo dài
Một số các triệu chứng khác có thể chưa được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.
Khi nào bạn cần gặp bác sĩ?
Tụ máu dưới màng cứng là một tình trạng nguy tính mạng cần được cấp cứu kịp thời. Bệnh nhân cần được hỗ trợ y tế ngay nếu vừa bị Chấn thương đầu và:
Bị mất ý thức
Có bất cứ triệu chứng nào cho thấy bạn đang bị tụ máu dưới màng cứng
Một số dấu hiệu và triệu chứng của tụ máu dưới màng cứng thường không xuất hiện liền sau chấn thương, do đó người bệnh cần được theo dõi kỹ.
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra tụ máu dưới màng cứng là gì?
Nguyên nhân thường gặp của máu tụ dưới màng cứng là do chấn thương đầu nghiêm trọng làm rách tĩnh mạch ở khoang dưới màng cứng. Vết rách làm cho máu chảy vào khoang này tạo thành khối tụ máu chèn ép mô não. Tình trạng này thường gọi là tụ máu dưới màng cứng cấp tính.
Tụ máu dưới màng cứng cũng có thể xảy ra sau một chấn thương đầu rất nhỏ, đặc biệt là ở người cao tuổi, do ở người già tĩnh mạch thường bị giãn ra nên dễ bị tổn thương hơn. Tình trạng này có thể không được chú ý trong nhiều ngày đến vài tuần và được gọi là tụ máu dưới màng cứng mãn tính.
Nguy cơ mắc phải
Những ai thường mắc tụ máu dưới màng cứng?
Bất cứ ai bị chấn thương đầu đều có thể mắc tụ máu dưới màng cứng, đặc biệt là ở trẻ nhỏ và người cao tuổi. Những người dùng nhiều rượu bia cũng dễ bị tụ máu dưới màng cứng hơn do dễ bị tai nạn và té ngã hơn.
Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc tụ máu dưới màng cứng?
Có rất nhiều yếu tố có thể làm tăng nguy cơ tụ máu dưới màng cứng, bao gồm:
Dùng thuốc chống đông máu (chất làm loãng máu, bao gồm aspirin)
Nghiện rượu lâu ngày
Mắc các bệnh lý làm khó đông máu
Bị chấn thương đầu lặp đi lặp lại
Độ tuổi: bệnh thường xảy ra nhiều hơn ở trẻ nhỏ và người già
Phòng ngừa
Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế diễn tiến của tụ máu dưới màng cứng?
Tụ máu dưới màng cứng có thể được hạn chế nếu bạn:
Đội mũ bảo hiểm cho bạn và bé: đội mũ bảo hiểm phù hợp và vừa vặn khi chơi các môn thể thao tiếp xúc, đạp xe đạp, lái xe mô tô, trượt tuyết, cưỡi ngựa, trượt ván, trượt patin, trượt ván tuyết hoặc thực hiện các hoạt động có khả năng gây chấn thương đầu sẽ giúp ngăn ngừa chấn thương.
Thắt dây an toàn cho bạn và bé: thắt dây an toàn mỗi khi bạn lái xe ô tô hoặc mô tô có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tổn thương đầu khi gặp tai nạn.
Bảo vệ trẻ nhỏ: luôn dùng dây an toàn vừa vặn, bọc cạnh bàn lại, chặn đường lên cầu thang, buộc đồ nội thất hoặc các trang thiết bị nặng vào tường để tránh chúng bị lật và ngăn trẻ leo lên những đồ vật không an toàn hoặc không vững.
Điều trị
Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.
Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán tụ máu dưới màng cứng?
Người bệnh nhập viện sau khi bị chấn thương đầu thường được làm chẩn đoán hình ảnh đầu như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI). Những kiểm tra hình ảnh này có thể giúp bác sĩ phát hiện sự tồn tại của tụ máu dưới màng cứng. Chụp MRI hơi ưu thế hơn chụp CT trong khả năng phát hiện tụ máu dưới màng cứng nhưng chụp CT lại nhanh và thường sẵn có hơn.
Một số trường hợp hiếm có thể dùng chụp mạch não đồ để chẩn đoán tụ máu dưới màng cứng. Trong kỹ thuật này, một ống thông được đưa vào động mạch ở bẹn và luôn lên động mạch cổ và não. Sau đó chất cản quang đặc biệt được tiêm vào để cho hình ảnh dòng máu chảy qua các động tĩnh mạch trên phim X-quang.
Những phương pháp nào dùng để điều trị tụ máu dưới màng cứng?
Việc điều trị phụ thuộc vào kết quả khám lâm sàng, triệu chứng, kích thước, vị trí khối máu tụ và khối máu tụ là cấp tính hay mạn tính.
Bệnh nhân có thể phải phẫu thuật ngay lập tức để làm giảm bớt áp lực lên não. Bác sĩ có thể khoan một lỗ ở sọ để giúp máu chảy ra và giảm bớt áp lực. Khối tụ máu quá lớn hoặc đã đông cứng lại có thể có thể cần được loại bỏ qua thủ thuật mở hộp sọ.
Bác sĩ có thể cho bạn sử dụng thuốc lợi tiểu và corticoid để làm giảm sưng. Thuốc anticonvulsion, như phenytoin, cũng có thể được sử dụng để kiểm soát hay ngăn chặn cơn co giật.
Những người bị tụ máu dưới màng cứng mãn tính và ở trong tình trạng ổn định có thể chỉ cần theo dõi cho đến khi thực sự cần điều trị.
Việc hồi phục có thể chậm và lên đến 2 năm. Trẻ em nhìn chung phục hồi nhanh hơn người lớn.