Triệu chứng
Các triệu chứng Viêm khớp dạng thấp tuổi thiếu niên bao gồm đau khớp, sưng khớp, cứng khớp, phát ban và sốt nhẹ
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu và chụp X-quang.
Cần làm các xét nghiệm loại trừ các nguyên nhân khác của bệnh viêm khớp như nhiễm trùng và lupus ban đỏ hệ thống.
Điều trị
Điều trị hướng vào việc làm giảm các triệu chứng và ngăn chặn tình trạng viêm trong khớp để tránh tổn thương khớp vĩnh viễn
Tổng quan
Viêm khớp dạng thấp tuổi thiếu niên là Viêm khớp xảy ra trước tuổi 17 và kéo dài trong ít nhất 6 tuần. Đây là bệnh thuộc nhóm Tự miễn dịch ở trẻ em, chưa rõ nguyên nhân. Trong viêm khớp dạng thấp tuổi thiếu niên, hệ miễn dịch của cơ thể tấn công lớp lót bên trong khớp gây viêm và tổn thương khớp.
Triệu chứng
Các triệu chứng Viêm khớp dạng thấp tuổi thiếu niên bao gồm đau khớp, sưng khớp, cứng khớp, phát ban và Sốt nhẹ. Các triệu chứng có thể xuất hiện, mất đi và thay đổi tùy theo mức độ nghiêm trọng của bệnh và khớp bị bệnh.
Chẩn đoán
Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
Xét nghiệm máu và chụp X-quang.
Cần làm các xét nghiệm loại trừ các nguyên nhân khác của bệnh viêm khớp như nhiễm trùng và Lupus ban đỏ hệ thống.
Xét nghiệm tìm kháng thể kháng nhân (ANA), xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP) và phân tích dịch khớp.
Các xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu.
Điều trị
Điều trị hướng vào việc làm giảm các triệu chứng và ngăn chặn Tình trạng viêm trong khớp để tránh tổn thương khớp vĩnh viễn. Trong trường hợp nhẹ, có thể chỉ cần dùng các thuốc chống viêm như Ibuprofen và Naproxen. Corticosteroid tiêm khớp hoặc đường uống (prednisone) có thể được sử dụng.
Nếu triệu chứng không giảm, có thể phải thay đổi loại thuốc, như Hydroxychloroquine (Plaquenil), Sulfasalazine (Azulfidine), Methotrexate hoặc sử dụng các thuốc tác nhân sinh học. Các tác nhân sinh học bao gồm Leflunomide (Arava), Adalimumab (Humira), Etanercept (Enbrel), Infliximab (Remicade) và Anakinra (Kineret). Vật lý trị liệu có thể hữu ích để duy trì chức năng khớp.
Nguyên nhân
Tổn thương xương khớp tuổi thiếu niên hiện nay là nhóm bệnh rất hay gặp trong thực tế lâm sàng, diễn biến phức tạp, khó nhận biết và nhìn chung vẫn còn gây rất nhiều khó khăn cho các bác sỹ lâm sàng nói chung và các bác sỹ nhi khoa nói riêng trong chẩn đoán, điều trị, theo dõi và tiên lượng bệnh.
Viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên là một trong những nhóm bệnh hay gặp nhất. Đây là nhóm bệnh tự miễn dịch, nguyên nhân chưa biết ở trẻ em, được định nghĩa là tình trạng viêm khớp mãn tính kéo dài ít nhất 6 tuần, khởi phát bệnh trước 16 tuổi. Với định nghĩa này đã loại trừ một số bệnh ở trẻ em có các biểu hiện lâm sàng tương tự như: Viêm khớp do virut, chấn thương, ban xuất huyết Scholein -Henoch, sốt thấp (còn gọi là bệnh thấp tim, thấp khớp cấp); viêm khớp nhiễm khuẩn; nhóm bệnh lý tự miễn dịch khác như lupus ban đỏ hệ thống, bệnh mô liên kết hỗn hợp hay viêm da cơ khởi phát tuổi thiếu niên; một số bệnh lý ác tính có biểu hiện khớp như bệnh bạch cầu cấp và các bệnh lý máu ác tính khác; đau khớp tuổi phát triển hay một số bệnh khác như Legg- Perthes- Calve... cũng không thuộc nhóm này.
Viêm khớp tự phát thiếu niên (Juvenile Idiopathic Arthritis - JIA) là thuật ngữ do Liên đoàn quốc tế phòng chống các bệnh khớp (International League Against Rheumatic diseases- ILAR) đề xuất, nhằm thống nhất trên bình diện quốc tế về tên bệnh, phân loại nhóm bệnh viêm khớp tự miễn tuổi thiếu niên vốn có tên là viêm khớp mãn tính thiếu niên (Juvenile Chronic Arthritis - JCA) thường được dùng ở châu Âu- Anh, hay viêm khớp dạng thấp thiếu niên (Juvenile Rheumatoid Arthritis - JRA) thường được dùng ở Mỹ - Canada với những tiêu chuẩn vốn có một số khác biệt.
Nguyên nhân gây bệnh viêm khớp tự phát thiếu niên còn chưa được biết rõ, tuy nhiên người ta thống nhất cho rằng bệnh có tính chất tự miễn với tình trạng nhiễm trùng làm khởi động một loạt quá trình trong hệ thống miễn dịch. Bệnh thường khởi phát sau nhiễm virut, Chlamydia, Mycoplasma, Streptococus, Salmonella, Shigella…
Về tần suất, nói chung bệnh viêm khớp dạng thấp thiếu niên ít gặp hơn viêm khớp dạng thấp ở người lớn. Ở Việt Nam chưa có thống kê về bệnh này, nhưng một số thống kê ở Mỹ và châu Âu cho thấy, lứa tuổi mắc bệnh ở khoảng từ 2-16 tuổi, với tỷ lệ 1/1000 trẻ mỗi năm, nữ gặp nhiều hơn nam. Thật may là phần lớn trong số đó thường có diễn biến nhẹ, chỉ khoảng 1/10.000 trường hợp bệnh sẽ tiến triển nặng dần.
Phòng ngừa
Nguyên nhân của nhóm bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát cho đến nay vẫn còn chưa rõ. Các nghiên cứu gần đây cho phép kết luận bệnh không phải do một căn nguyên riêng lẻ gây ra, mà do nhiều yếu tố hướng khớp cùng tác động vào một cá thể mang những yếu tố di truyền nhất định. Các yếu tố môi trường, đặc biệt là các tác nhân nhiễm khuẩn; rối loạn hệ thống miễn dịch... có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học viêm khớp thiếu niên tự phát.
Điều trị
Khám mắt: Trẻ mắc bệnh viêm khớp mãn tính luôn cần được bác sĩ nhãn khoa khám. Tất cả trẻ em đều có thể có nguy cơ bị viêm màng bồ đào. Trẻ viêm vài khớp, có kháng thể kháng nhân dương tính cần khám và soi đáy mắt 4 tháng/lần; trẻ có kháng thể kháng nhân âm tính cần khám mắt 6 tháng/lần.