1. Chế độ Dinh dưỡng giảm chất béo giảm nguy cơ tử vong do ung thư vú đến 21%
"Một sự thay đổi chế độ ăn uống có thể ảnh hưởng tốt đến nguy cơ tử vong do ung thư vú của phụ nữ", nhà điều tra chính Tiến sĩ Rowan Chlebowski, thuộc Viện nghiên cứu y sinh Los Angeles, Trung tâm y tế Harbor-UCLA, Torrance, California cho biết. Đây là nghiên cứu đầu tiên cung cấp "Bằng chứng thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát" rằng can thiệp chế độ ăn uống có thể làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư vú, Chlebowski nói với các phóng viên trong buổi họp báo trước buổi thuyết trình tại ASCO 2019 ở Chicago, Mỹ.
Trong nghiên cứu này có 48.835 phụ nữ sau mãn kinh (ở độ tuổi 50 đến 79) không bị ung thư vú, với khẩu phần ăn hàng ngày có lượng chất béo chiếm khoảng một phần ba hoặc cao hơn tổng lượng calo hàng ngày của họ. Số phụ nữ này được phân ngẫu nhiên vào nhóm ăn kiêng thông thường hoặc nhóm can thiệp chế độ ăn kiêng.
Mục tiêu của can thiệp là giảm lượng chất béo xuống 20% lượng calo hàng ngày và tiêu thụ năm phần rau và trái cây hàng ngày và sáu phần ngũ cốc. Can thiệp chế độ ăn uống này làm giảm đáng kể lượng chất béo và tăng lượng trái cây, rau và ngũ cốc. Nó đã dẫn đến việc giảm cân dù khá khiêm tốn (3%) (đối với tất cả, P <0,001)
Việc can thiệp chế độ ăn uống kéo dài trong khoảng thời gian 8,5 năm. Trong thời gian đó, có ít hơn 8% người mắc ung thư vú trong nhóm can thiệp. Các ca tử vong do ung thư vú có phần thấp hơn trong nhóm can thiệp, nhưng tỷ lệ không khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, tử vong sau ung thư vú (nghĩa là ung thư vú và tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào) đã giảm đáng kể ở nhóm can thiệp, cả trong suốt 8,5 năm can thiệp và thời gian theo dõi tích lũy.
Tại buổi họp báo, Tiến sĩ Chlebowski tập trung vào những kết quả mới này với thời gian theo dõi lâu hơn. Thời gian theo dõi trung bình là 19,6 năm, trong đó có 3364 trường hợp mắc ung thư vú trong số tất cả những người tham gia. Trong nhóm can thiệp, có nguy cơ tử vong do ung thư vú thấp hơn đáng kể về mặt thống kê 21% (ung thư vú và tử vong do ung thư vú) so với những người tham gia kiểm soát chế độ ăn uống thông thường (tỷ số nguy cơ [HR], 0,79; 95% khoảng tin cậy [CI], 0,64 - 0,97). Ngoài ra, đã giảm đáng kể 15% tử vong do mọi nguyên nhân sau khi chẩn đoán ung thư vú ở nhóm can thiệp (HR, 0,85; 95% CI, 0,74 - 0,96).
2. Vai trò của chế độ Dinh dưỡng trong điều trị ung thư vú
Bác sĩ Lidia Schapiro, MD, Đại học Stanford, California, người đồng điều hành chương trình buổi họp báo cho biết nghiên cứu phòng ngừa là "rất quan trọng", mặc dù thực tế là nhóm can thiệp đã hoàn thành mục tiêu giảm mỡ 20% (hầu hết phụ nữ giảm tiêu thụ hàng ngày xuống 25% hoặc ít hơn tất cả lượng calo). Các bác sĩ lâm sàng nên khuyến khích phụ nữ sau mãn kinh "đặt trái cây, rau và ngũ cốc vào đĩa của họ".
"Nghiên cứu này cho thấy chế độ ăn uống có thể tạo ra sự khác biệt về nguy cơ tử vong do ung thư vú " Chủ tịch ASCO ông Monica M. Bertagnolli, nhận xét
Mặc dù cũng còn có một số câu hỏi, ý kiến phản biện khác cho rằng đây chỉ là nghiên cứu quan sát, không thực sự được chọn ngẫu nhiên. Báo cáo cũng chưa chỉ ra rõ loại thực phẩm nào, loại chất béo nào nên giảm. Nhưng dù sao nghiên cứu cũng đã được thực hiện trên một số lượng lớn người tham gia và tiến hành trong một thời gian rất dài nên kết quả thu được cũng rất “phi thường “có ý nghĩa.
3. Hướng dẫn chế độ ăn uống để giảm cân cho giảm nguy cơ tử vong do ung thư
- Ăn ít hơn 10% calo mỗi ngày từ đường.
- Ăn ít hơn 10% calo mỗi ngày từ chất béo bão hòa.
- Ăn ít hơn 2,3mg muối mỗi ngày.
- Các loại rau, đậu, hoa quả.
- Ngũ cốc, hoặc thức ăn chiếm một nửa là ngũ cốc: Gạo lứt, lúa mì, kê, ngô, đậu tương, đậu xanh, yến mạch, kiều mạch, cao lương.
- Sữa không chất béo hoặc ít chất béo, bao gồm sữa, sữa chua, pho mát, sữa đậu nành.
- Các thực phẩm có nhiều protein, bao gồm hải sản, thịt nạc và gia cầm, trứng, đậu và các sản phẩm từ đậu nành.
- Dầu ăn.
- Hạn chế đường, tinh bột và rượu, bia.
- Ăn 150-200mg thịt nạc hoặc thịt gia cầm mỗi ngày.
- Bỏ da và chất béo từ thịt, gia cầm và cá.
- Bổ sung 2/3 lượng calo của bạn hàng ngày bằng rau tươi, hoa quả và ngũ cốc nguyên hạt, và một phần ba hoặc ít hơn với thịt và các sản phẩm từ sữa.
- Ăn nhiều trái cây, rau, và ngũ cốc. Ăn ít nhất 2 cốc trái cây và 3 chén rau mỗi ngày và 100 gam hoặc nhiều hơn các loại ngũ cốc nguyên hạt.
- Uống sữa không béo và các sản phẩm từ sữa.
- Uống nước hoặc đồ uống không đường nếu bạn thấy đói giữa các bữa ăn.
- Không uống soda, nước chanh, trà đá ngọt.
- Hạn chế các thực phẩm muối, hun khói, hoặc ngâm vì chúng có rất nhiều muối và nitrates.