Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

Giảm nguy cơ ung thư vú cho phụ nữ có nguy cơ cao

16/04/2021
Giảm nguy cơ ung thư vú cho phụ nữ có nguy cơ cao

Ung thư vú là một trong số loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ. Tỷ lệ ung thư vú nói chung sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040 và thường xảy ra ở những phụ nữ trẻ hơn. Bây giờ hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải tập trung nỗ lực của mình vào việc tìm cách để giảm nguy cơ ung thư vú.

1. Nguyên nhân gây nên ung thư vú

Một số yếu tố nguy cơ tồn tại làm tăng tỷ lệ ung thư vú của nữ giới bao gồm:

  • Phụ nữ lớn tuổi (trên 50 tuổi), phụ nữ chưa có con hoặc sinh con sau 30 tuổi cũng có khả năng cao.
  • Do di truyền, nếu trong nhà có mẹ hoặc chị mắc bệnh trước thời kỳ mãn kinh thì nguy cơ các cặp gen kết hợp lại với nhau gây ra ung thư vú cao hơn.
  • Có kinh nguyệt sớm (trước 12 tuổi), mãn kinh muộn (sau 55 tuổi).
  • Một số nghiên cứu cho hay phụ nữ có thói quen hút thuốc, uống rượu bia trong vòng 5 năm kể từ khi bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt có đến 70% phát triển ung thư trước tuổi 50 cao hơn so với những người không hút.
  • Phụ nữ có mô vú dày, điều trị Xạ trị ở ngực trước tuổi 30, người béo phì.
  • Hormone thay thế trị liệu (HRT; Estrogen cộng với progesterone) làm tăng nguy cơ ung thư vú nhẹ sau 5 năm điều trị.
  • Thuốc tránh thai làm tăng nguy cơ một chút nếu được sử dụng trong nhiều năm.

2. Triệu chứng và biến chứng của ung thư vú

Khởi điểm người phụ nữ sẽ nhận ra (sờ nắn được) một khối u hay một khối cứng không rõ ràng lắm trong bầu vú.

Khi một khối u phát triển trong ống dẫn sữa, máu có thể chảy ra ngoài núm vú. Kích thước hoặc hình dạng của vú có thể thay đổi. Ngoài ra, núm vú có thể kéo co da tạo nên một lúm đồng tiền xuất hiện.

Các triệu chứng khác có thể bao gồm một khối u hoặc sưng ở nách và bị đỏ hoặc sưng vú.

Các biến chứng nghiêm trọng nhất của ung thư vú di căn là khi một số tế bào từ khối u vỡ ra và di chuyển đến các khu vực khác của cơ thể, có thể thông qua máu hoặc mạch bạch huyết – xâm nhập vào các mô. Khi các tế bào ung thư vú di căn, đó là phổ biến nhất là các hạch bạch huyết, phổi, gan, xương, não, và da. Nó có thể mất nhiều năm để di căn, thậm chí cả sau khi khối u vú được chẩn đoán và điều trị, trước khi ung thư đã lan rộng từ khối u ban đầu xuất hiện.

3. Giảm nguy cơ ung thư vú bằng cách nào?

Nếu bác sĩ đã đánh giá tiền sử gia đình và xác định rằng bạn có các yếu tố nguy cơ, chẳng hạn như tình trạng tiền ung thư, làm tăng nguy cơ ung thư vú, bạn có thể thảo luận về các lựa chọn để giảm nguy cơ, chẳng hạn như:

  • Thuốc phòng ngừa (hóa trị): Các loại thuốc ngăn chặn estrogen, như chất điều chế thụ thể Estrogen chọn lọc và chất ức chế aromatase, làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ có nguy cơ cao. Những loại thuốc này có tác dụng phụ, vì vậy các bác sĩ dành những loại thuốc này cho những phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú rất cao. Thảo luận về lợi ích và rủi ro với bác sĩ của bạn.
  • Phẫu thuật dự phòng: Phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú rất cao có thể lựa chọn phẫu thuật cắt bỏ vú khỏe mạnh (phẫu thuật cắt bỏ vú dự phòng). Họ cũng có thể chọn cách cắt bỏ buồng trứng khỏe mạnh (cắt bỏ buồng trứng dự phòng) để giảm nguy cơ mắc cả ung thư vú và ung thư buồng trứng.

4. Chẩn đoán ung thư vú

Các Xét nghiệm và quy trình được sử dụng để chẩn đoán ung thư vú bao gồm:

  • Khám vú: Bác sĩ sẽ kiểm tra cả vú và các hạch bạch huyết ở nách của bạn, xem có bất kỳ khối u hoặc bất thường nào khác không

  • Chụp nhũ ảnh: Là chụp X-quang vú, nhũ ảnh thường được sử dụng để sàng lọc ung thư vú. Nếu phát hiện bất thường trên nhũ ảnh, bác sĩ có thể đề nghị chẩn đoán để đánh giá thêm về sự bất thường đó.
  • Siêu âm vú: Siêu âm sử dụng sóng âm để tạo ra hình ảnh của các cấu trúc nằm sâu bên trong cơ thể. siêu âm có thể được sử dụng để xác định xem một khối u vú mới là một khối đặc hay một nang chứa đầy chất lỏng.
  • Lấy một mẫu tế bào hoặc mô vú để xét nghiệm (chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học): Là cách xác định chẩn đoán ung thư vú. Bác sĩ sử dụng một thiết bị kim chuyên dụng được hướng dẫn bằng Xquang hoặc xét nghiệm hình ảnh khác (siêu âm, MRI tuyến vú) để lấy tế bào hoặc lõi mô từ vùng nghi ngờ. Thông thường, một điểm đánh dấu kim loại nhỏ được để lại tại vị trí bên trong vú để có thể dễ dàng xác định vùng tổn thương này trong các xét nghiệm về hình ảnh sẽ thực hiện tiếp theo. Các mẫu tế bào và lõi mô được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích, nơi các chuyên gia xác định liệu các tế bào có phải là ung thư hay không. Mẫu sinh thiết cũng được phân tích để xác định loại tế bào liên quan đến ung thư vú, mức độ xâm lấn (cấp độ) của ung thư và liệu các tế bào ung thư có thụ thể hoóc môn hoặc các thụ thể khác có thể ảnh hưởng đến các lựa chọn điều trị của bạn hay không.
  • Chụp cộng hưởng từ vú (MRI): Máy MRI sử dụng một nam châm và sóng radio để tạo ra hình ảnh bên trong vú của bạn. Trước khi chụp MRI vú, bạn được tiêm thuốc nhuộm. Không giống như các loại xét nghiệm hình ảnh khác, MRI không sử dụng bức xạ để tạo ra hình ảnh.
  • Các xét nghiệm và quy trình khác có thể được sử dụng tùy thuộc vào tình huống của bạn.

5. Giai đoạn ung thư vú

Khi đã được chẩn đoán ung thư vú, bác sĩ sẽ thiết lập mức độ (giai đoạn) của ung thư. Giai đoạn ung thư giúp xác định tiên lượng bệnh và các lựa chọn điều trị tốt nhất.

Thông tin đầy đủ về giai đoạn ung thư vú có thể không có sẵn cho đến khi bạn trải qua phẫu thuật ung thư vú. Các xét nghiệm và quy trình được sử dụng để đánh giá giai đoạn ung thư vú có thể bao gồm:

  • Xét nghiệm máu, chẳng hạn như công thức máu toàn bộ
  • Chụp nhũ ảnh của vú đối bên để tìm dấu hiệu ung thư
  • MRI vú
  • Xương
  • Chụp cắt lớp vi tính (CT)
  • Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET)

Không phải tất cả phụ nữ sẽ cần tất cả các xét nghiệm và quy trình này. Bác sĩ sẽ chọn các xét nghiệm thích hợp dựa trên các trường hợp cụ thể và các triệu chứng mới mà bạn có thể gặp phải.

Các giai đoạn ung thư vú được xếp từ 0 đến IV, với giai đoạn 0 cho thấy ung thư không xâm lấn hoặc chỉ giới hạn trong ống tuyến vú. Ung thư vú giai đoạn IV, còn được gọi là ung thư vú di căn, cho thấy ung thư đã lan sang các vùng khác của cơ thể.

Phân giai đoạn ung thư vú cũng tính đến mức độ ung thư (độ mô học); các marker, như các thụ thể của estrogen, Progesterone và HER2; và các yếu tố tăng sinh.