Mục lục:

Lưu ý về loãng xương sau điều trị ung thư vú

Những phụ nữ đã điều trị ung thư vú có nguy cơ cao mắc bệnh loãng xương và gãy xương. Khi bị loãng xương, xương sẽ bị yếu và mỏng đi khiến chúng rất dễ bị ngay kể cả khi không có lực tác động hoặc lực tác động nhỏ. Nếu chị em không phát hiện bệnh kịp thời có thể dẫn đến gãy xương và gây ra di chứng về sau.
Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

1. Mối liên hệ giữa ung thư vú và loãng xương 

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến thứ hai ở phụ nữ sau ung thư da, đặc biệt phụ nữ từ 60 tuổi trở lên dễ có nguy cơ mắc ung thư vú hơn. Ung thư vú có nguy cơ phát triển tăng theo tuổi tác, vì tuổi tác phụ nữ càng có nguy cơ mắc bệnh loãng xương.

Với sự tiến bộ của y học ngày nay, tỷ lệ kéo dài tuổi thọ ở những bệnh nhân ung thư vú ngày càng cao. Vì vậy, bảo vệ sức khỏe xương và phòng ngừa loãng xương là vấn đề được quan tâm

Sau khi mãn kinh, phụ nữ có ít Estrogen trong cơ thể và điều đó có thể gây loãng xương. Nếu điều trị ung thư vú khiến người bệnh trải qua thời kỳ mãn kinh sớm và tăng nguy cơ bị loãng xương / gãy xương ở độ tuổi trẻ hơn.

Các yếu tố dẫn đến bệnh loãng xương bao gồm:

  • Độ mỏng hoặc khung nhỏ.
  • Tiền sử gia đình mắc bệnh.
  • Đã mãn kinh và đặc biệt có thời kỳ mãn kinh sớm.
  • Mất kinh nguyệt.
  • Sử dụng kéo dài một số loại thuốc như những loại được sử dụng để điều trị lupus, hen suyễn, thiếu hụt tuyến giáp và co giật.
  • Lượng canxi thấp.
  • Thiếu hoạt động thể chất.
  • Hút thuốc.
  • Uống rượu quá mức.

Loãng xương thường có thể ngăn ngừa được. Nó được gọi là một căn bệnh thầm lặng bởi vì, nếu không được phát hiện, loãng xương có thể tiến triển trong nhiều năm mà không có triệu chứng cho đến khi xảy ra gãy xương. Loãng xương còn được gọi là một bệnh thời thơ ấu, để lại hậu quả tuổi già vì xây dựng xương khỏe mạnh ở tuổi trẻ giúp ngăn ngừa loãng xương và gãy xương sau này.

Phụ nữ đã điều trị ung thư vú có thể tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương và gãy xương. Estrogen có tác dụng bảo vệ xương và giảm mức độ kích hoạt hormone loãng xương. Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học, bệnh nhân ung thư vú sẽ có thể kéo dài tuổi thọ thông qua việc phẫu thuật và sử dụng thuốc.

Do dùng thuốc điều trị hoặc phẫu thuật, nhiều người sống sót sau ung thư vú bị mất chức năng buồng trứng và do đó, giảm nồng độ estrogen. Phụ nữ tiền mãn kinh trước khi điều trị ung thư có thể trải qua thời kỳ mãn kinh sớm hơn so với những người không bị ung thư vú.

2. Lưu ý về loãng xương sau điều trị ung thư vú

2.1. Phụ nữ đã điều trị ung thư vú có thể tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương và gãy xương.

Khi bị loãng xương, xương bị yếu đi hoặc mỏng đi. Do xương trở nên mỏng manh nên xương có thể bị gãy ngay cả khi không có lực tác động hoặc lực rất nhỏ. Mọi người thường không phát hiện ra loãng xương cho tới lúc xuất hiện hiện tượng gãy xương. Loãng xương không thể chữa khỏi nhưng có thể điều trị để cố gắng giữ xương khỏe và ít gãy hơn.

Phụ nữ chưa trải qua thời kỳ mãn kinh và phụ nữ đã qua thời kỳ mãn kinh (sau mãn kinh) đều có nguy cơ loãng xương liên quan tới điều trị ung thư vú.

2.2. Hóa trị

Hóa trị có thể ảnh hưởng tới chức năng của buồng trứng, gây ra mãn kinh sớm ở một số phụ nữ và ncó thể làm giảm mật độ xương. Phụ nữ ở dưới 45 tuổi đã mãn kinh trong ít nhất một năm do hóa trị có thể có nguy cơ loãng xương. Khi có kinh nguyệt lại, bạn vẫn có thể bị loãng xương. 

2.3. Ức chế buồng trứng

Ức chế buồng trứng có nghĩa là buồng trứng ngừng làm việc tạm thời hoặc vĩnh viễn. Điều đó đồng nghĩa với việc có ít estrogen  trong cơ thể, làm giảm mật độ xương. 

Với phụ nữ tiền mãn kinh, dùng thuốc có chứa tamoxifen có thể làm giảm nhẹ mật độ xương. Với những phụ nữ mãn kinh, uống thuốc có chứa tamoxifen sẽ làm chậm việc giảm mật độ xương và có thể làm giảm nguy cơ loãng xương.

Bên cạnh đó, các chất ức chế Aromatase (gồm anastrozole, Letrozole và exemestane) chủ yếu được dùng để điều trị ung thư vú ở những phụ nữ sau mãn kinh sẽ làm giảm lượng estrogen tuần hoàn trong cơ thể, dẫn tới loãng xương.

3. Phương pháp điều trị ung thư vú giảm nguy cơ mắc bệnh loãng xương 

Một số liệu pháp nội tiết: Arimidex (tên hóa học: anastrozole); Aromasin (tên hóa học: exemestane); Femara (tên hóa học: letrozole).

Cắt buồng trứng bằng thuốc hoặc phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng.

Kiểm soát loãng xương / gãy xương bằng cách quét DEXA (quét tia X quang xương) nhằm đo mật độ xương của người bệnh. Nếu bệnh nhân có tiền sử gia đình bị loãng xương hoặc đang có bất kỳ phương pháp điều trị nào gây ra gãy xương, hãy nói chuyện với bác sĩ về việc quét DEXA để có được số đo cơ bản về mật độ xương. Nếu nó thấp hơn bình thường hoặc giảm trong khi đang điều trị, có những loại thuốc gọi là bisphosphonates bạn có thể dùng để củng cố xương. Ba loại bisphosphonate khác nhau được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để ngăn ngừa và điều trị bệnh loãng xương: Fosamax (tên hóa học: alendronate natri); Actonel (tên hóa học: risedronate); Boniva (tên hóa học: ibandronate)

Trong đó, Fosamax và Actonel có sẵn như là liều hàng ngày hoặc hàng tuần. Boniva có thể được thực hiện một lần một tháng hoặc tiêm 3 tháng một lần. Cùng với đó, bác sĩ sẽ dựa vào tình trạng bệnh cũng như thể trạng của bệnh nhân để quyết định sử dụng một trong những loại thuốc này phù hợp với người bệnh.

Ngoài ra, người bệnh cần thay đổi lối sống để giữ cho xương chắc khỏe nhất:

  • Chế độ dinh dưỡng: Chế độ ăn uống đóng vai trò trong việc giảm nguy cơ ung thư vú và sức khỏe xương. Đối với sức khỏe xương, một chế độ ăn uống cân bằng giàu canxi và vitamin D là rất quan trọng. Nguồn canxi tốt đến từ các sản phẩm sữa ít béo; rau xanh đậm, lá xanh và thực phẩm, đồ uống tăng cường canxi. Các chất bổ sung có thể giúp đảm bảo nhu cầu canxi được đáp ứng mỗi ngày, đặc biệt là ở những người bị Dị ứng sữa. Viện Y học khuyến cáo nên bổ sung lượng canxi hàng ngày là 1.000 mg (miligam) cho nam và nữ đến 50 tuổi. Phụ nữ trên 50 tuổi và nam giới trên 70 tuổi nên tăng lượng tiêu thụ lên 1.200 mg mỗi ngày. Nguồn thực phẩm bổ sung vitamin D bao gồm lòng đỏ trứng, cá nước mặn và gan.
  • Tập thể dục thường xuyên: Tập thể dục làm cho xương và cơ bắp mạnh mẽ hơn và giúp làm chậm quá trình loãng xương. Các hoạt động tốt nhất cho xương của là các bài tập nặng và tăng sức đề kháng. Các bài tập mang trọng lượng buộc cơ thể phải làm việc chống lại trọng lực. Các hoạt động thể dục có thể thực hiện gồm đi bộ, leo cầu thang và nhảy múa. Các bài tập sức đề kháng - chẳng hạn như nâng tạ - cũng có thể giúp xương chắc khỏe.Tập thể dục giảm cân 3-4 lần một tuần để có lợi ích tối đa cho sức khỏe xương
  • Duy trì lối sống lành mạnh: Hút thuốc có hại cho xương cũng như tim và phổi. Phụ nữ hút thuốc có xu hướng trải qua thời kỳ mãn kinh sớm hơn, dẫn đến giảm nồng độ hormone bảo tồn xương sớm hơn và gây ra gãy xương. Ngoài ra, những người hút thuốc có thể hấp thụ ít canxi từ chế độ ăn uống của họ. Một số nghiên cứu đã tìm thấy nguy cơ ung thư vú cao hơn một chút ở những phụ nữ uống rượu và bằng chứng cho thấy rượu có thể có tác động tiêu cực đến sức khỏe của xương.
  • Kiểm tra mật độ xương: Một Xét nghiệm mật độ khoáng xương (BMD) đo mật độ xương ở các bộ phận khác nhau của cơ thể. Thử nghiệm BMD vô cùng an toàn và không gây đau đớn này có thể phát hiện loãng xương trước khi gãy xương xảy ra và dự đoán khả năng gãy xương của một người trong tương lai. Một phụ nữ đang hồi phục sau ung thư vú nên hỏi ý kiến bác sĩ về việc Xét nghiệm mật độ xương.
  • Sử dụng thuốc men: Trên thực tế, không có cách nào chữa bệnh loãng xương một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, một số loại thuốc có sẵn để ngăn ngừa và điều trị bệnh loãng xương như Bisphosphonates - một nhóm thuốc điều trị loãng xương, có tác dụng có lợi đối với sức khỏe ở một số phụ nữ bị ung thư vú.

Một loại thuốc điều trị loãng xương khác là Raloxifene làm giảm nguy cơ ung thư vú. Raloxifene - một loại thuốc được biết đến là bộ điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (SERMs).


Lưu ý về loãng xương sau điều trị ung thư vú

Phụ nữ đã điều trị ung thư vú có thể tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương và gãy xương.

Khi bị loãng xương, xương bị yếu đi hoặc mỏng đi. Do xương trở nên mỏng manh nên xương có thể bị gãy ngay cả khi không có lực tác động hoặc lực rất nhỏ. Mọi người thường không phát hiện ra loãng xương cho tới lúc xuất hiện hiện tượng gãy xương. Loãng xương không thể chữa khỏi nhưng có thể điều trị để cố gắng giữ xương khỏe và ít gãy hơn.

Phụ nữ chưa trải qua thời kỳ mãn kinh và phụ nữ đã qua thời kỳ mãn kinh (sau mãn kinh) đều có nguy cơ loãng xương liên quan tới điều trị ung thư vú.

Hóa trị

Hóa trị có thể ảnh hưởng tới chức năng của buồng trứng, gây ra mãn kinh sớm ở một số phụ nữ và ncó thể làm giảm mật độ xương. Phụ nữ ở dưới 45 tuổi đã mãn kinh trong ít nhất một năm do hóa trị có thể có nguy cơ loãng xương. Khi có kinh nguyệt lại, bạn vẫn có thể bị loãng xương. 

Ức chế buồng trứng

Ức chế buồng trứng có nghĩa là buồng trứng ngừng làm việc tạm thời hoặc vĩnh viễn. Điều đó đồng nghĩa với việc có ít estrogen  trong cơ thể, làm giảm mật độ xương. 

Với phụ nữ tiền mãn kinh, dùng thuốc có chứa tamoxifen có thể làm giảm nhẹ mật độ xương. Với những phụ nữ mãn kinh, uống thuốc có chứa tamoxifen sẽ làm chậm việc giảm mật độ xương và có thể làm giảm nguy cơ loãng xương.

Bên cạnh đó, các chất ức chế Aromatase (gồm anastrozole, letrozole và exemestane) chủ yếu được dùng để điều trị ung thư vú ở những phụ nữ sau mãn kinh sẽ làm giảm lượng estrogen tuần hoàn trong cơ thể, dẫn tới loãng xương.

Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Đã kiểm duyệt nội dung