Mục lục:

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính

Chụp cắt lớp vi tính giúp xác định chính xác vị trí, kích thước, tỷ trọng khối u trung thất, mối liên quan giải phẫu khối u trung thất với những cơ quan xung quanh,... Dưới sự hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính, kỹ thuật sinh thiết trung thất sẽ được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

1. Khi nào cần sinh thiết trung thất?

Trung thất là một khoang nằm vị trí trung tâm của lồng ngực, giữa các khoang màng phổi. Trung thất chứa các bộ phận quan trọng như tim, các mạch máu lớn, khí quản, thực quản, ống ngực, tuyến ức, thần kinh tim, Thần kinh hoành, hạch bạch huyết,.... U trung thất là bệnh lý thường gặp nhất trong nhóm các bệnh lý vùng trung thất. Các u trung thất thường gặp theo những vị trí nhất định như:

  • U thường gặp ở trung thất trước: u tuyến ức, u lympho, bướu giáp, u tuyến cận giáp,...
  • U thường gặp ở trung thất giữa: u khí quản, u lympho
  • U thường gặp ở trung thất sau: u thực quản; các u, kén thần kinh; thoát vị cơ hoành; Nang giả tụy,...

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp x-quang phổi thẳng-nghiêng, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có tiêm thuốc cản quang, chụp cộng hưởng từ hạt nhân MRI,... có thể giúp chẩn đoán u trung thất. Tuy nhiên các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thông thường không thể xác định khối u là lành tính hay ác tính. Để tìm ra bản chất khối u nhằm lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp thì sinh thiết là một phương pháp vô cùng quan trọng.

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính là một phương pháp được thực hiện phổ biến hiện nay. Chụp cắt lớp vi tính giúp xác định chính xác vị trí, kích thước, tỷ trọng khối u, mối liên quan giải phẫu khối u với những cơ quan xung quanh,... Dưới sự hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính, kỹ thuật sinh thiết, chọc hút mẫu bệnh phẩm sẽ được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn. Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính là phương pháp ít xâm lấn, an toàn, tính chính xác cao. Đặc biệt, sinh thiết xuyên thành ngực có ưu thế trong những tổn thương ngoại vi lồng ngực mà Nội soi không với tới được.

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính - ảnh 1
Bệnh nhân có nguy cơ tràn khí màng phổi chống chỉ định thực hiện phương pháp này

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính được chỉ định trong các trường hợp người bệnh có các tổn thương trung thất cần xác định chẩn đoán, nghi tổn thương u, viêm, lao,... Kỹ thuật không được thực hiện trong các trường hợp:

  • Người bệnh có rối loạn đông máu nặng không điều chỉnh được
  • Các tổn thương nằm sâu trong trung thất, xung quanh có nhiều mạch máu lớn, bệnh nhân có tổn thương trên nền phổi nặng như Giãn phế nang nặng, nằm sát kén khí lớn có nguy cơ gây tràn khí màng phổi.

2. Chuẩn bị trước khi sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính

2.1. Người thực hiện

Ê-kíp thực hiện gồm bác sĩ chuyên khoa thành thạo kỹ thuật sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính, bác sĩ phụ, điều dưỡng đã được đào tạo về kỹ thuật này, kỹ thuật viên điện quang. Nếu người bệnh không thể hợp tác còn cần thêm bác sĩ và kỹ thuật viên gây mê.

2.2. Các phương tiện cần có

  • Máy chụp cắt lớp vi tính; phim, máy in phim và hệ thống lưu trữ hình ảnh.
  • Thuốc gây tê, thuốc gây mê (nếu có chỉ định), thuốc sát trùng, thuốc đối quang i-ốt tan trong nước, thuốc và dụng cụ cấp cứu, kim sinh thiết chuyên dụng, bơm kim tiêm, bông, băng, gạc

2.3. Chuẩn bị người bệnh

Để chuẩn bị làm sinh thiết xuyên thành ngực, người bệnh và người nhà sẽ được nhân viên y tế giải thích mục đích và các tai biến có thể gặp phải khi tiến hành sinh thiết. Sinh thiết chỉ được thực hiện nếu bệnh nhân đồng ý và ký vào giấy chấp nhận làm thủ thuật.

Bác sĩ sẽ giải thích các bước tiến hành để người bệnh cùng hợp tác. Đặc biệt khi cần nằm bất động, thở ra hết và nín thở kim chọc kim cũng như khi rút kim sinh thiết. Khi bệnh nhân thở, khối u trung thất cũng sẽ bị di chuyển theo nhịp thở. Do đó, việc duy trì nín thở mỗi lần như nhau sẽ giúp kim sinh thiết được đưa vào đúng vị trí tổn thương.

Bệnh nhân cần thông báo cho bác sĩ các loại thuốc đang sử dụng. Bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh ngưng một số thuốc vài ngày trước khi sinh thiết xuyên thành ngực, đặc biệt là các thuốc chống đông, thuốc chống kết tập tiểu cầu,... Người bệnh cũng cần thông báo cho bác sĩ các bệnh lý và tình trạng khác nếu có.

Bác sĩ chỉ định thực hiện các Xét nghiệm cận lâm sàng và khám sơ bộ lại tình trạng huyết động, hô hấp, nhịp tim,... nhằm đảm bảo người bệnh có tình trạng sức khỏe phù hợp để tiến hành sinh thiết xuyên thành ngực.

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính - ảnh 2
Cắt lấy bệnh phẩm tổn thương trước khi sinh thiết xuyên thành ngực

3. Các bước tiến hành sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính

Tiến hành Gây tê tại chỗ bằng Lidocain 2%, lượng thuốc tê từ 2-10ml tùy thuộc vào vị trí sinh thiết. Người bệnh được đưa lên bàn chụp cắt lớp vi tính, đặt ở tư thế phù hợp, bộc lộ toàn bộ phần ngực. Tùy theo vị trí tổn thương, người bệnh sẽ được đặt nằm ngửa, sấp hoặc nghiêng. Tuy nhiên, tư thế nằm ngửa hoặc sấp là tư thế thường được sử dụng, do ở các tư thế này người bệnh thường nằm yên, ít chuyển động. Bên cạnh đó, tổn thương khi sinh thiết nằm ở trung thất, các hướng chọc chủ yếu từ phía trước và phía sau vào trung thất mà ít khi chọc xiên từ hai bên. Trong suốt quá trình tiến hành từ khi chụp xác định vị trí đến khi sinh thiết, người bệnh phải hoàn toàn ở một tư thế.

Chụp hình định vị để xác định vị trí dự kiến sinh thiết. Di chuyển đường đánh dấu lớp cắt về giới hạn trên của vị trí dự kiến sinh thiết trên thành ngực của người bệnh. Dán lá kim tiêm định vị lên vị trí cần sinh thiết. Sau đó, bác sĩ chỉ định chụp cắt lớp khu vực đã dán lá kim.

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính - ảnh 3
Chụp cắt lớp vi tính cho phép phát hiện các tổn thương ở trung thất

Dựa vào hình ảnh chụp cắt lớp vi tính, bác sĩ sẽ đánh giá kỹ tổn thương, kích thước, tỷ trọng khối u, mối tương quan giải phẫu của khối u với những cơ quan khác trong trung thất. Đồng thời xác định điểm dự kiến chọc kim trên da, khoảng cách từ mép ngoài tổn thương đến điểm dự kiến chọc kim, góc chọc kim sinh thiết.

Tiến hành sát khuẩn vùng sinh thiết. Bác sĩ rửa tay, mặc áo, đi găng, trải săng vô khuẩn có lỗ lên vị trí cần thiết. Gây tê tại chỗ theo từng lớp, sau đó chọc kim dẫn đường theo đường chọc dự kiến, chụp cắt lớp vi trí xác định đường đi và vị trí của kim chọc.

Khi kim dẫn đường đã vào đúng vị trí tổn thương (u trung thất), bác sĩ rút lòng kim, luồn dụng cụ cắt vào và tiến hành cắt mảnh bệnh phẩm.

Sau khi đã thực hiện xong, bác sĩ rút kim sinh thiết, lấy mẫu bệnh phẩm trong kim, cố định mẫu bệnh phẩm để làm xét nghiệm giải phẫu học. Điều dưỡng băng lại vị trí chọc.

Sau thủ thuật, người bệnh được chụp ngay vào lớp chụp cắt lớp vi tính để phát hiện sớm biến chứng tràn khí hay chảy máu màng phổi. Bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ toàn trạng, tình trạng đau ngực, khó thở, Ho máu 24 giờ sau sinh thiết xuyên thành ngực. Sau 1 ngày, người bệnh sẽ được chụp lại X quang phổi thẳng để kiểm tra tình trạng tràn khí màng phổi và chảy máu.

4. Các tai biến sau sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính và cách xử lý

Chảy máu vị trí chọc kim: Xử lý bằng cách băng ép vị trí chọc.

Ho máu: xử trí tùy theo từng mức độ.

  • Nếu Ho ra máu ít, cho người bệnh nằm nghỉ tại giường, thở oxy, uống thuốc giảm ho.
  • Nếu Ho từ 20ml trở lên, cho người bệnh nằm nghỉ tại giường, đầu thấp, mặt quay về một bên, thở oxy. Đặt nội khí quản thở máy nếu người bệnh có biểu hiện suy hô hấp.

Nếu có tràn khí trung thất hoặc tai biến do chọc vào các cơ quan, cấu trúc nguy hiểm ở trung thất, bác sĩ sẽ xử lý theo từng trường hợp cụ thể.

Sinh thiết trung thất dưới cắt lớp vi tính là một phương pháp chẩn đoán hình ảnh phổ biến hiện nay. Chụp cắt lớp vi tính giúp xác định chính xác vị trí, kích thước, tỷ trọng khối u, mối liên quan giải phẫu khối u với những cơ quan xung quanh. Tuy nhiên để cho kết quả chính xác thì người bệnh cần tìm đến cơ sở y tế uy tín để thực hiện.

Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Cử nhân Điều dưỡng Lê Thị Thúy
Đã kiểm duyệt nội dung