1. Sự nguy hiểm của đường lây truyền từ mẹ sang con của virus Viêm gan B
Đường lây truyền từ mẹ sang con là một trong những đường lây truyền mạnh nhất của virus viêm gan B và thường dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng. Những trẻ được sinh ra bởi những người mẹ dương tính với HBsAg và HBeAg có nguy cơ nhiễm virus viêm gan B chu sinh lên tới 70 - 90%, và 85 - 90% số trẻ nhiễm sẽ mang virus Viêm gan B mạn tính. Ước tính lên tới 25% số trẻ này trong tương lai sẽ tử vong vì ung thư biểu mô tế bào gan Nguyên phát hoặc xơ gan.
Với sự tiến bộ của y học, các nghiên cứu được tiến hành đã dần hé lộ và gợi ý cách mà virus viêm gan B có thể lây truyền từ mẹ sang con:
- Tiền phôi và biện pháp hỗ trợ sinh sản: virus viêm gan B đã được phát hiện trong tinh trùng, noãn và phôi. Dữ liệu hiện giờ tuy còn giới hạn nhưng đã gợi ý sự lây truyền virus viêm gan B có thể xảy ra từ các dòng tế bào mầm. Nguy cơ lây truyền virus viêm gan B từ những người mang virus mạn trong quá trình hỗ trợ sinh sản hiện chưa rõ ràng, nhưng trên lý thuyết đường lây truyền này có thể xảy ra.
- Trước khi sinh: nguy cơ lây truyền trong tử cung chưa được biết rõ nhưng đánh giá hiện tại là có nguy cơ thấp. Sự hiện diện của HBeAg ở người mẹ có mối liên hệ với nồng độ HBV DNA cao hơn, và HBeAg là cấu trúc protein duy nhất của virus viêm gan B có khả năng vượt qua hàng rào nhau thai. Một số phỏng đoán cho rằng HBeAg có thể gây ra nhiễm virus viêm gan B mạn dựa trên cơ sở lý thuyết virus viêm gan B không bị tế bào T tiêu diệt trong tử cung.
- Trong quá trình sinh đẻ: lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ là phổ biến nhất. Sự phơi nhiễm xảy ra thông qua việc có sự hòa trộn giữa máu mẹ và thai nhi, thông qua sự xâm nhập tại niêm mạc hoặc qua vết thương ngoài da. HBV DNA được phát hiện trong máu cuống rốn có thể là chỉ điểm đã xảy ra lây truyền virus từ mẹ sang con, nhưng cũng có thể chỉ là sự truyền máu giữa mẹ và con trong quá trình chuyển dạ và sinh nở, hoặc là mẫu máu cuống rốn đã bị ô nhiễm. Trong đa số các nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt của việc lây truyền từ mẹ sang con giữa hai hình thức sinh nở bằng phẫu thuật và bằng đường âm đạo ở những đứa trẻ được thực hiện dự phòng sau phơi nhiễm. Tuy có một nghiên cứu cho thấy những ca mổ đẻ có chọn lọc có thể làm giảm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con ở những người mẹ HBeAg dương tính với nồng độ HBV DNA trước sinh ≥ 106 copies/mL, nhưng ở Hoa Kỳ hiện nay không khuyến cáo hình thức Sinh mổ nhằm mục đích giảm nguy cơ lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con.
2. Những phụ nữ đã sử dụng vắc xin phòng virus viêm gan B có cần được sàng lọc trong thai kỳ hay không?
Viêm gan virus B là một bệnh do virus gây ra, và cũng như nhiều căn bệnh do virus khác, sử dụng vắc - xin là cách phòng ngừa hiệu quả nhất. Ngày nay đã có rất nhiều người ý thức được sự nguy hiểm của virus viêm gan B và thực hiện việc sử dụng vắc - xin phòng virus viêm gan B theo đúng khuyến cáo. Tuy nhiên xét nghiệm Huyết thanh về miễn dịch không được khuyến cáo sử dụng thường quy sau khi sử dụng vắc - xin, do đó, về mặt nguyên tắc, không thể khẳng định sau khi sử dụng vắc - xin đã có đáp ứng miễn dịch đạt yêu cầu hay chưa. Vì lý do đó, những phụ nữ dù đã sử dụng đúng và đủ vắc - xin phòng virus viêm gan B theo khuyến cáo vẫn phải được sàng lọc trong thai kỳ để đảm bảo an toàn cho đứa trẻ khi được sinh ra.
Theo khuyến cáo của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Centers for Disease Control and Prevention - CDC) Hoa Kỳ, để xác định và quản lý việc nhiễm virus viêm gan B ở các thai phụ cần phải:
- Tất cả các phụ nữ Mang thai cần phải được làm xét nghiệm HBsAg từ ngay những lần khám thai đầu (ví dụ như trong ba tháng đầu) đối với mỗi một lần mang thai, thậm chí ngay cả khi trước đây đã từng được sử dụng vắc - xin phòng virus viêm gan B hay đã từng được xét nghiệm viêm gan. Xét nghiệm những thai phụ đã biết nhiễm virus viêm gan B mạn cung cấp dữ liệu về kết quả HBsAg dương tính trong thai kỳ và để đảm bảo chắc chắn đứa trẻ sẽ được dự phòng đúng lúc.
Tất cả các thai phụ có HBsAg dương tính nên được kiểm tra HBV DNA để có định hướng sử dụng liệu pháp kháng virus nhằm ngăn ngừa nhiễm virus viêm gan B trước sinh.
Hiệp hội nghiên cứu bệnh lý gan Hoa Kỳ (American Association for the Study of Liver Diseases - AASLD) đề xuất liệu pháp kháng virus sẽ được sử dụng khi HBV DNA của thai phụ > 200 000 IU/mL.
Tất cả thai phụ có HBsAg dương tính đều cần được quản lý thai nghén đầy đủ và được đảm bảo chắc chắn rằng đứa trẻ khi sinh ra được thực hiện dự phòng lây nhiễm đúng lúc và theo dõi đầy đủ. Kết quả HBsAg dương tính cần được cung cấp cho cơ sở y tế nơi thai phụ định chọn làm nơi sinh nở và nơi đứa trẻ mới sinh sẽ được chăm sóc.
Tất cả các thai phụ có HBsAg dương tính cần được tư vấn đầy đủ thông tin về virus viêm gan B, về liệu pháp kháng virus, tầm quan trọng của việc dự phòng cho đứa trẻ mới sinh (sử dụng vắc - xin phòng virus viêm gan B và kháng thể miễn dịch đặc hiệu kháng virus viêm gan B trong 12 giờ đầu sau sinh), hoàn thành liệu trình sử dụng vắc - xin phòng virus viêm gan B, và xét nghiệm Huyết thanh học miễn dịch sau khi sử dụng vắc - xin.
- Những thai phụ chưa được xét nghiệm trước sinh, những người bị viêm gan, và những người có nguy cơ nhiễm virus viêm gan B cao (ví dụ như đã hoặc đang tiêm chích ma túy, quan hệ Tình dục với hơn một người trong 6 tháng gần nhất, có chồng là người HBsAg dương tính, đã từng được chẩn đoán và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục,...) nên được xét nghiệm ngay khi nhập viện để chuẩn bị cho chuyển dạ.
Bài viết tham khảo nguồn: CDC và NCBI