1. Nguyên nhân gây ung thư phổi
Thứ nhất là hút thuốc. Hút thuốc lá là nguyên nhân của 85% đến 90% trường hợp ung thư phổi; nguy cơ ung thư phổi ở người hút thuốc lá cao gấp 30 lần so với người không hút thuốc. Hút thuốc thụ động có thể làm tăng nguy cơ ung thư phổi gấp đôi. Thứ hai là bụi Amiăng có liên quan đến nguyên nhân gây ung thư trung mô ác tính. Phơi nhiễm amiăng cũng làm tăng nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt là ở những người hút thuốc (nguy cơ cao gấp ba lần so với chỉ hút thuốc). Ngoài ra, phơi nhiễm phóng xạ có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư phổi tế bào nhỏ ở cả người hút thuốc và người không hút thuốc. Tia Radon có liên quan đến 6% trường hợp ung thư phổi. Các chất khác liên quan đến ung thư phổi bao gồm asen, niken, hợp chất crom, chloromethyl ether và các chất ô nhiễm không khí.
Hiện nay ung thư phổi có hai loại chính: Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (Non small cell lung cancer- NSCLC). Ung thư phổi tế bào nhỏ (Small cell lung Cancer -SCLC)
Loại ung thư phổi phổ biến nhất là NSCLC. NSCLC chiếm 8,5 trên 10 trong số tất cả các bệnh ung thư phổi được chẩn đoán. NSCLC có thể được chia thành các tiểu loại bằng cách nhìn vào các tế bào ung thư dưới kính hiển vi. Điều này được gọi là phân loại dựa vào mô học.
Có 3 kiểu mô học của NSCLC: Thứ nhất, ung thư biểu mô tế bào tuyến (Adenocarcinoma) xuất hiện trong các tế bào xếp thành phế nang (túi khí nhỏ) trong phổi. Đây là kiểu phổ biến nhất. Khoảng 4 trong số 10 bệnh ung thư phổi là ung thư tuyến.
Thứ hai, Ung thư biểu mô tế bào vảy (gai) xuất hiện trong các tế bào phẳng lót bên trong đường dẫn khí trong phổi. Khoảng 3 trong số 10 bệnh ung thư phổi là ung thư biểu mô tế bào vảy. Thứ ba, ung thư biểu mô tế bào lớn (không phân biệt) bắt đầu trong các tế bào lớn có thể phát triển ở bất cứ đâu trong phổi. Điều này chiếm 1,5 trên 10 bệnh ung thư phổi.
2. Triệu chứng và dấu hiệu
Triệu chứng. Phần lớn bệnh nhân đều có triệu chứng. Các triệu chứng ung thư phổi có thể do bệnh Nguyên phát ở ngực (ho khan, khàn giọng, Ho ra máu, đau ngực, khó thở, viêm phổi), bệnh di căn (khối hạch mới, đau xương, gãy xương bệnh lý, đau đầu, co giật), hoặc hội chứng cận ung thư (chán ăn, sụt cân, buồn nôn do tăng canxi máu, v.v.).
Tuy nhiên bệnh nhân cũng có thể hoàn toàn không có triệu chứng và tình cờ phát hiện khi chụp X quang ngực hay CT ngực. Bệnh nhân mắc bệnh ung thư nằm ở đỉnh phổi (khối u Pancoast) có thể bị dị cảm và yếu ở cánh tay và bàn tay cũng như Hội chứng Horner (sụp mi, Tăng tiết mồ hôi và co đồng tử) do sự chèn ép của bướu liên quan đến các dây thần kinh giao cảm cổ. Bằng chứng của bệnh di căn bao gồm đau xương (di căn xương); Vàng da và các triệu chứng ở bụng với Gan to nhanh chóng (di căn gan) hay nổi các hạch bạch huyết.
Các dấu hiệu cận lâm sàng: Chụp cắt lớp vi tính (CT) quét qua vùng ngực và bụng. CT ngực để đánh giá giai đoạn ung thư phổi rõ ràng là ưu thế vượt trội so với X quang ngực và đã được báo cáo là có độ chính xác tổng thể là 70%. Các hạch bạch huyết trung thất thường được coi là bất thường khi đường kính lớn hơn 1,5 cm và bình thường khi nhỏ hơn 1,0 cm. CT scan ngực cũng cung cấp thông tin về mức độ xâm lấn của khối u nguyên phát, sự hiện diện của tràn dịch màng phổi và tình trạng hạch.
Hình ảnh khối u thượng thận. Di căn tuyến thượng thận rất phổ biến trong NSCLC. Đôi khi có thể phân biệt giữa bệnh di căn và U tuyến thượng thận dựa trên các đặc điểm mật độ trên CT hoặc MRI. Nếu chẩn đoán không rõ ràng và tuyến thượng thận là nơi duy nhất của di căn nghi ngờ, cần phải sinh thiết để làm rõ chẩn đoán.
3. Sinh thiết phổi
Gần đây, xét nghiệm tế bào học trong mẫu đàm đã được thay thế phần lớn bằng nội soi phế quản bằng ống soi mềm. Ngay cả trong những khảo sát kỹ lưỡng nhất, xét nghiệm tế bào học trong mẫu đàm lặp đi lặp lại cho kết quả dương tính chỉ trong 60% đến 80% những khối bướu nằm ở trung tâm và 15% đến 20% khối bướu ở ngoại vi.
Nội soi phế quản (cuống phổi) bằng ống soi mềm nếu có bằng chứng về triệu chứng hoặc X quang cho thấy khối bướu có thể tiếp cận được. Hầu hết các bệnh ung thư có thể chẩn đoán được bằng soi trực tiếp. Đôi khi các khối u chỉ thể hiện rõ ràng khi đè hẹp phế quản từ ngoài, có thể được chẩn đoán thông qua nội soi phế quản bằng sinh thiết xuyên thành phế quản. Nội soi phế quản là không cần thiết nếu chẩn đoán mô học hoặc tế bào học của ung thư phổi di căn đã được thực hiện. Siêu âm phế quản qua ngã nội soi (EBUS) và nội soi phế quản có hướng dẫn toạ độ GPS cải thiện đáng kể khả năng nội soi phế quản để lấy mẫu hạch bạch huyết trung thất và đánh giá các tổn thương xa hơn.
Hạch bạch huyết. Các hạch bạch huyết ngoại vi ở vùng trên đòn hay vùng nách đại diện cho một vị trí tiềm năng khác để sinh thiết.
4. Đánh giá giai đoạn
Sau khi chẩn đoán mô học ung thư phổi, việc đánh giá ung thư phổi nên tập trung vào việc xác định xem bệnh có bị giới hạn ở vùng ngực hay không và do đó có thể được điều trị với mục đích chữa khỏi (SCLC giai đoạn khu trú và NSCLC giai đoạn I đến III) hoặc liệu bệnh nhân có bị bệnh ở giai đoạn tiến xa hay không.
Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET-CT). Mặc dù quét PET-CT đã chứng minh sự vượt trội so với quét CT và bổ sung cho nội soi trung thất trong đánh giá các hạch trung thất, nhưng nó hữu ích nhất trong việc loại trừ di căn xa. PET cũng có thể hữu ích trong việc đánh giá đáp ứng sau khi điều trị trước phẫu thuật (nghĩa là hóa trị) hoặc theo dõi sau điều trị. Máy quét PET-CT hiện đang sử dụng phổ biến và cải thiện hơn nữa khả năng chẩn đoán giai đoạn chính xác của bệnh nhân.
Nên chụp CT não hoặc MRI não như một phần đánh giá giai đoạn cho bệnh nhân mắc SCLC, liên quan đến tỷ lệ 10% di căn Não không có triệu chứng thần kinh. Những xét nghiệm này không được khuyến cáo cho hầu hết bệnh nhân NSCLC giai đoạn I bướu nhỏ trong trường hợp không có dấu hiệu lâm sàng. Tất cả các bệnh nhân mắc NSCLC giai đoạn tiến triển hơn và tất cả những bệnh nhân có triệu chứng thần kinh nên được quét não.
Sinh thiết kim qua da và xuyên thành ngực thường được sử dụng để chẩn đoán ung thư phổi ở những trường hợp bướu nằm gần ngoài da. Xạ hình xương phần lớn đã được thay thế bằng PET-CT. Tuy nhiên, xạ hình xương cung cấp thông tin bổ sung liên quan đến bệnh xương cho PET-CT và ít tốn kém hơn.
5. Xét nghiệm đột biến gen và làm hóa mô miễn dịch trong bệnh nhân giai đoạn IV
Bệnh nhân NSCLC cần có khảo sát về các đột biến gen quan trọng vì có khoảng 60% các trường hợp NSCLC giai đoạn IV ở Việt Nam có đột biến gen EGFR. Những trường hợp này có chỉ định điều trị thuốc nhắm trúng đích ức chế EGFR. Ngoài ra bệnh nhân cũng cần khảo sát các đột biến gen khác như ROS1, MET để làm cơ sở điều trị thuốc nhắm trúng đích.
Ngoài ra, những trường hợp không có đột biến gen cần khảo sát hóa mô miễn dịch về yếu tố PD-L1, là cơ sở để điều trị các thuốc ức chế chốt kiểm soát miễn dịch (immune checkpoint inhibitors).