Sự kiện nóng: Sốt xuất huyêt

Bệnh Viêm họng những điều cần biết

18/10/2021
Bệnh Viêm họng những điều cần biết

Viêm họng là một bệnh gặp khá phổ biến, mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh nhưng tỷ lệ viêm họng cấp tính thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên, viêm họng mạn tính gặp ở lứa tuổi lớn hơn. Viêm họng: Bệnh tưởng nhẹ nhưng chớ coi thường.

1. Viêm họng là bệnh gì?

Họng là cửa ngõ của các cơ quan hô hấp trên, hô hấp dưới, hệ thống xoang, mũi và hệ tiêu hóa. Khi họng bị viêm rất dễ làm ảnh hưởng đến các cơ quan có liên quan do chúng có sự liên thông với nhau hoặc do cơ chế miễn dịch của cơ thể.

Viêm họng là đau, Trầy xước hoặc kích thích cổ họng thường trở nên tồi tệ hơn khi bạn nuốt. Nguyên nhân phổ biến nhất của đau họng (viêm họng) là nhiễm virus, chẳng hạn như Cảm lạnh hoặc cúm. Viêm họng do virus có thể tự khỏi. Viêm họng liên cầu khuẩn (nhiễm liên cầu khuẩn), một loại viêm họng ít phổ biến hơn do vi khuẩn gây ra, cần điều trị bằng kháng sinh để ngăn ngừa biến chứng.

Các nguyên nhân ít phổ biến khác của đau họng có thể cần điều trị phức tạp hơn như hơi hóa chất, khói thuốc lá, bụi (trong bụi có rất nhiều loại vi sinh vật khác nhau), không khí bị ô nhiễm họng.

Thông thường có hai loại viêm họng: Viêm họng cấp và viêm họng mạn tính.

  • Viêm họng cấp tính: Có thể tự phát cũng có thể xảy ra sau một sự thay đổi thời tiết đột ngột hoặc do một số bệnh khác có liên quan như viêm xoang, viêm mũi cấp tính hoặc mạn tính... Triệu chứng điển hình là Sốt cao, rét run, đau họng, đặc biệt là khi nuốt, sau vài ngày xuất hiện Ho khan sau đó có thể có xuất tiết có đờm.
  • Viêm họng mạn tính thường được gọi là viêm họng hạt. Sốt nhẹ hoặc không sốt, họng rát, ngứa, có cảm giác nuốt hơi vướng và luôn cảm thấy có chất nhày chảy xuống họng. Ở những đối tượng tổ chức amidan đang phát triển thì thường viêm họng có kèm theo viêm amidan (viêm họng và viêm amidan cấp tính).

Viêm họng mạn tính thường gặp ở những bệnh nhân lớn tuổi hoặc amidan đã teo nhỏ, hoặc đã được phẫu thuật cắt bỏ thì chỉ thấy họng đỏ, có nhiều tổ chức hạt lổn nhổn ở trụ trước, trụ sau và thành sau họng. Cũng có một số ít trường hợp viêm họng kèm theo chảy máu có thể là do ung thư vòm họng.

Bệnh Viêm họng những điều cần biết - ảnh 1
Viêm amidan

2. Tiến triển và biến chứng của viêm họng

  • Viêm họng mạn tính khi loại trừ được các yếu tố nguyên nhân cũng có thể khỏi được. Thường các Viêm họng mạn tính sẽ lần lượt qua các giai đoạn xuất tiết, quá phát và teo nếu để kéo dài không điều trị. Đặc biệt các trường hợp trĩ mũi (ozen). Suy yếu niêm mạc đường thở do các bụi hoá chất cũng trở thành viêm họng teo.
  • Viêm họng nếu không được điều trị sẽ gây ra các biến chứng như: Viêm tấy hoặc áp xe thành họng và quanh amidan, viêm mũi, viêm xoang, viêm tai giữa, lan xuống gây viêm thanh quản, khí quản và nguy hiểm nhất là ung thư vòm họng.
  • Viêm họng mạn tính cũng thường đưa đến viêm thanh quản mạn tính, viêm khí, phế quản mạn tính... hoặc các đợt viêm cấp tính như: viêm amidan cấp tính, áp xe amidan...
  • Gây lên suy Nhược cơ thể, Suy nhược thần kinh do phải khạc nhổ nhiều, nhất là ban đêm.
  • Viêm họng có thể dẫn đến thấp tim do liên cầu tan huyết nhóm B

3. Yếu tố nguy cơ

Mặc dù bất cứ ai cũng có thể bị đau họng, một số yếu tố khiến bạn dễ mắc bệnh hơn, bao gồm:

  • Tuổi tác. Trẻ em và thiếu niên rất có thể bị viêm họng. Trẻ em từ 3 đến 15 tuổi cũng có nhiều khả năng bị viêm họng liên cầu khuẩn, nhiễm trùng vi khuẩn phổ biến nhất liên quan đến đau họng.
  • Tiếp xúc với khói thuốc lá. Hút thuốc và hút thuốc thụ động có thể gây kích ứng cổ họng. Việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá cũng làm tăng nguy cơ ung thư miệng, cổ họng và hộp thoại.
  • Dị ứng. Dị ứng theo mùa hoặc phản ứng Dị ứng liên tục với bụi, nấm mốc hoặc vẩy da thú cưng làm cho bệnh viêm họng dễ xảy ra hơn.
  • Tiếp xúc với chất kích thích hóa học. Các hạt trong không khí từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch và các hóa chất gia dụng thông thường có thể gây kích ứng họng.
  • Nhiễm trùng xoang mạn tính hoặc thường xuyên. Thoát nước từ mũi của bạn có thể kích thích cổ họng của bạn hoặc lây nhiễm.
  • Đóng cửa quý. Nhiễm virus và vi khuẩn lây lan dễ dàng ở bất cứ nơi nào mọi người tụ tập, cho dù trong các trung tâm chăm sóc trẻ em, lớp học, văn phòng hoặc máy bay.
  • Miễn dịch suy yếu. Bạn dễ bị nhiễm trùng nói chung nếu sức đề kháng của bạn thấp. Các nguyên nhân phổ biến làm giảm khả năng miễn dịch bao gồm HIV, tiểu đường, điều trị bằng steroid hoặc thuốc hóa trị, căng thẳng, mệt mỏi và chế độ ăn uống kém.

4. Phòng bệnh viêm họng

  • Đeo khẩu trang bảo hộ khi tiếp xúc với bụi và hoá chất.
  • Súc họng hàng ngày bằng dung dịch kiềm ấm hoặc nước muối.
  • Nâng cao thể trạng: cho uống các vitamin A, D2, uống nước suối, nước khoáng.
  • Cần vệ sinh răng, miệng, họng hằng ngày như đánh răng, súc họng bằng nước muối loãng. Khi có các bệnh về răng, miệng, xoang, mũi... cần được điều trị dứt điểm tránh để mầm bệnh tồn tại và lây lan vào vùng họng hầu và vệ sinh răng miệng, họng hầu cũng để khai thông đường thở, làm cho thở thông thoáng, nhẹ nhàng hơn.
  • Khi thầy thuốc khám bệnh và xác định có viêm họng, cần điều trị thật nghiêm túc, đúng phác đồ. Những loại kháng sinh thầy thuốc kê đơn, người bệnh cần dùng đúng liều, đúng thời gian. Không nên tự mua thuốc để điều trị ngay cả các thuốc điều trị triệu chứng, đặc biệt là kháng sinh để tránh vi khuẩn nhờn thuốc (kháng thuốc) làm cho những đợt viêm họng sau này rất khó điều trị.
Bệnh Viêm họng những điều cần biết - ảnh 2
Khám răng miệng
  • Nên đeo khẩu trang khi ra đường để tránh bụi vì trong bụi có vô vàn vi sinh vật gây bệnh, ngoài ra đeo khẩu trang còn có nhiều tác dụng khác như hạn chế hít phải không khí ô nhiễm khi đi qua vùng không khí không được sạch. Những người hay bị viêm họng không nên uống nước lạnh quá hoặc nước đá, đặc biệt là mùa hè hay dùng trong giải khát như bia lạnh, nước giải khát ướp lạnh...
  • Đối với phòng bệnh thấp tim, việc tuyên truyền giáo dục cho mọi người hiểu biết về tác hại của viêm họng và hậu quả của bệnh thấp tim do viêm họng bởi liên cầu A là rất cần thiết.
  • Phòng bệnh thấp tim còn được tiêm dự phòng bằng kháng sinh penicilin chậm hằng tháng hoặc 3 tuần một lần trong vài năm sau đó tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe bệnh nhân (nếu bị dị ứng thì có thể thay bằng loại kháng sinh khác).